Nhà nước không can thiệp việc kinh doanh của doanh nghiệp

30/01/2010

Điều hành không phải là can thiệp vào hoạt động của DN. Đó là việc của các chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc. Lãnh đạo Bộ không hề can thiệp hoạt động của DN, Thứ trưởng Lê Danh Vĩnh nói tại buổi trực tuyến về con đường phát triển của DN vừa nhỏ.

Nhà báo Phương Loan: Với sự tăng trưởng số lượng đầy ấn tượng, gấp 15 lần trong vòng 9 năm, các DN Việt Nam đã thể hiện được sức sống mãnh liệt của mình. DN vừa và nhỏ được ghi nhận là động lực cho sự phát triển của Việt Nam trong thời gian qua, tuy nhiên nguồn động lực này chưa phát huy được sức đẩy như mong muốn do nhiều yếu tố như tác động của cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế cũng như tồn tại vốn có của môi trường kinh doanh Việt Nam và hạn chế nội tại của các DN vừa và nhỏ.

Tuần Việt Nam phối hợp với Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp - Nông thôn (IPSARD) tổ chức bàn tròn về con đường phát triển cho DN vừa và nhỏ ViệtNam với 3 vị khách mời :

- Ông Cao Sỹ Kiêm - Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam,

- Bà Phạm Chi Lan - chuyên gia kinh tế, nguyên Phó chủ tịch Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam,

- Ông Lê Danh Vĩnh - Thứ trưởng Bộ Công thương Việt Nam.

 

Có lớn mà không mạnh

Câu hỏi đầu tiên xin dành cho ông Cao Sỹ Kiêm: Các nghiên cứu đã chỉ rõ là một khu vực DN vừa và nhỏ lớn mạnh là đặc điểm quan trọng của nền kinh tế thành công. Với Việt Nam, sau 10 năm ra đời và hoạt động của luật DN, chúng ta đã có một lực lượng DN vừa và nhỏ lớn mạnh hay chưa?

 
 Thứ trưởng Lê Danh Vĩnh - TS Cao Sỹ Kiêm. Ảnh VNN

Ông Cao Sỹ Kiêm: DN Việt Nam có lớn nhưng không mạnh. Các DN vừa và nhỏ Việt Nam phát triển rất nhanh sau thời gian ngắn, nhất là sau khi luật DN Việt Nam ra đời. Khu vực này chiếm 95-97% tổng số DN của nước ta, sử dụng 50% lượng lao động và làm ra khoảng 40% hàng tiêu dùng XK và đóng góp gần 20% GDP.

Thời gian qua, tốc độ phát triển DN tương đối tốt, vị trí tương đối rõ, nhưng lại không mạnh về điểm. Phần lớn DN Việt Nam nhỏ và vừa có vốn rất ít, vốn tự có, vốn điều lệ rất ít, huy động bên ngoài hạn chế, tiếp cận thị trường vốn không đủ điều kiện, năng lực tự huy động không có... Vốn là cái khó khăn nhất và cũng là cái yếu nhất của DN.

Về trình độ công nghệ, phần lớn DN từ thủ công đi lên hoặc có tiếp cận được khoa học công nghệ nước ngoài thì cũng là thế hệ sau, gần như cuối chót lạc hậu.

Về tay nghề, chúng ta đào tạo không kịp, lực lượng lao động qua đào tạo cũng chỉ  khoảng 20-30%. Ngay cả  với tỷ lệ 20-30% đó cũng là đào tạo kiểu kỹ thuật đơn giản, ngắn ngày, thao tác cho nhuần nhuyễn, chứ kỹ thuật công nghệ cao cũng chưa có nhiều.

Bên cạnh đó, khả năng quản lý, nhận biết về kinh doanh thị trường thế giới và trong nước, luật lệ văn hóa kinh doanh, xúc tiến thương mại và quảng bá thương mại còn rất hạn chế.

Nói như thế để thấy rằng bức tranh DN vừa và nhỏ Việt Nam có những điểm mạnh thì rất mạnh còn những điểm yếu thì rất yếu.

Nhà báo Phương Loan: Cách đây chưa lâu, bà Chi Lan có nhận xét: Việt Nam chưa có DN Thánh Gióng. Thực tế, DN vừa và nhỏ Việt Nam chiếm tới 97% tổng số DN. Tại sao chúng ta lại có ít DN lớn đến thế và nhất là những DN đi từ DN nhỏ đi lên?

Bà Phạm Chi Lan: Thực ra các DN đi từ nhỏ đến lớn phải có một quá trình, như một đứa trẻ sinh ra phải có quá trình từ bú sữa mẹ rồi lớn dần lên, biết ăn uống rồi trưởng thành người lớn được.

 
 Ảnh VNN

Ở các nước, kinh nghiệm chung cho thấy các DN từ nhỏ trở thành DN lớn phải mất một thời gian 1 thập kỷ. Tổ chức lao động thế giới ILO đã tổng kết thì sau 10 năm có một số DN nhỏ vượt lên thành DN lớn, và đóng góp vào sự phát triển của đất nước lớn hơn.

Ở Việt Nam, DN ra đời sau 10 năm có khá ít DN lớn, còn đa phần là quy mô vừa và nhỏ. Thậm chí có DN không thể tồn tại được, rút ra khỏi thịt trường.

Điều này có hai nguyên nhân: Trước hết là ở chính bản thân các doanh nghiệp như ông Cao Sỹ Kiêm đã nêu. Các DN tuy đông về số lượng nhưng DN vừa nhỏ lại vừa yếu nữa. Trong cái yếu đó, nhiều DN không đủ sức vươn lên thành DN Thánh Gióng.

Một nguyên nhân khác cũng không kém phần quan trọng là môi trường để cho các DN Việt Nam trưởng thành. Cũng giống như những cây nhỏ chúng ta trồng nếu có đất tốt, được tưới tắm có ánh sáng thì phát triển tốt, còn những cây vào những vùng đất cằn cỗi lại không chăm bón, không có người chắm sóc tử tế, thậm chí bỏ mặc nó thì khó phát triển được.

DN Việt Nam cũng vậy. Môi trường kinh doanh ở nước ta thực sự có nhiều mặt chưa thuận lợi và đặc biệt tiếp cận các nguồn lực đối với các DN vừa và nhỏ là vô cùng khó khăn.

Không có nguồn lực cho nên cũng có những người tài ba kinh doanh nhưng bị bó tay bó chân Họ không thể làm được những quy mô như mong muốn.

Ai cũng biết về mặt nguyên lý là nếu trưởng thành quy mô lớn hơn thì sẽ kinh tế hơn. Khị đến một quy mô nhất định thì khả năng lớn hơn rất nhiều nhưng không vượt qua ngưỡng đó thì không thể lớn lên được. Đây là vấn đề của chúng ta.

Liên quan đến môi trường kinh doanh, một yếu tố rất quan trọng  là vai trò của chính phủ, sự quan tâm cơ chế chính sách các mặt của chính phủ.

Nhà báo Phương Loan: Đứng trên góc độ của một người quản lý, Thứ trưởng Lê Danh Vĩnh đánh giá như thế nào về sự quan tâm của NN đối với DN vừa và nhỏ-lực lượng được đánh giá là đóng vai trò tiên phong trong phát triển kinh tế và tự do hóa kinh doanh của Việt Nam?

Ông Lê Danh Vĩnh: Tôi cho rằng, trong nền kinh tế ngay cả các nước có quy mô phát triển cao như Nhật Bản, Tây Âu và Bắc Mỹ nhưng họ vẫn chú trọng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) bởi vì SME và doanh nghiệp lớn bổ sung và hỗ trợ cho nhau trong việc sử dụng nguồn lao động và sản xuất các sản phẩm mà các doanh nghiệp lớn không làm được.

Ở nước ta, đảng và nhà nước luôn quan tâm đến DN, đặc biệt là SME bởi vì ở nước ta hầu hết là SME, ít có DN quy mô lớn.

Khi nước nghèo, nhà nước đầu tư vào DN, sở hữu thuộc DNNN nhưng khi ta dần chuyển sang nền kinh tế thị trường hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta chủ trương đa dạng hóa loại hình DN, đa dạng hóa hình thức sở hữu; DN làm ăn có hiệu quả thì phát triển, DN nào làm ăn không hiệu quả thì khó khăn.

Đối với SME, vừa rồi Chính phủ ban bành Nghị định 56 về giải pháp hỗ trợ SME là bước đi đúng hướng. sự hỗ trợ của nhà nước từ tài chính, cung cấp thông tin, đào tạo nhân lực, chính sách hỗ trợ để sử dụng KHCN, nguồn lực cán bộ khoa học kĩ thuật nước ngoài. SME không có điều kiện đi ra nước ngoài nhiều thì nhà nước hỗ trợ thông tin, ứng dụng thương mại điện tử trong làm ăn với nước ngoài hiệu quả hơn và kém chi phí hơn.

Méo mó phân bổ nguồn lực do lịch sử!

Nhà báo Phương Loan: Để DN phát triển được thì điều quan trọng nhất là khả năng tiếp cận được các nguồn lực của XH. Tuy nhiên có những đánh giá cho rằng bầu sữa nhà nước vẫn ưu ái chủ yếu cho các tập đoàn kinh tế nhà nước, trong khi lực lượng đông đảo các SME vẫn tiếp cận hạn chế với các nguồn lực kinh tế dù chúng ta khẳng định ưu tiên DN vừa và nhỏ?

Ông Lê Danh Vĩnh: So sánh giữa DN lớn đặc biệt là DNNN với SME thì có những ý kiến khác nhau. Tôi cho rằng, từ khi chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường, về cơ bản, ngân sách nhà nước lo cho xây dựng kết cấu hạ tầng... Về lâu dài, nó sẽ không giống như thời chiến tranh, bao cấp, với các DN sở hữu nhà nước, muốn mua máy bay thì nhà nước mua, xây dựng nhà máy điện thì nhà nước xây, đường sắt cầu cảng do nhà nước làm.

Ta chủ trương cổ phần hóa DNNN và chỉ giữ một số DN quan trọng chứ không phải là mãi mãi DNNN quản lý.

Tại thời điểm này các DN khác không được lợi thế như DNNN nên họ cũng có những suy bì nhưng đó là do lịch sử.

Nhà nước đang cổ phần hóa các DN. Ngay trong Bộ Công Thương cũng đang tiến hành cổ phần hóa các DN theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ chứ không có ý giữ lại cho nhà nước sở hữu.

Bà Phạm Chi Lan: Tôi nghĩ ở nước ta, cho đến bây giờ vẫn còn những méo mó trong cách phân bổ nguồn lực. Ở ta, nhà nước tập trung điều hành rất nhiều lĩnh vực kinh tế tập trung nguồn lực trong tay mình.

Ví dụ, đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng đại diện là nhà nước cho nên phân bổ đất đai ở đâu thì tất cả người dân và doanh nghiệp đề xuất với nhà nước. Cấp cho mình sử dụng, giao đất hay cho thuê dưới dạng nào là tiếp cận đất của nhà nước.

Một phần cũng do lịch sử để lại như ông Vĩnh vừa nêu nhưng một phần khác chúng ta đang giao cho DNNN sử dụng nhiều hơn.

Thẳng thắn mà nói thì mỗi khi cần một khoảng đất nào, về bất kỳ các địa phương nào thì thấy các DNNN dễ dàng tiếp cận, có thể lấy được hàng chục, thậm chí hàng trăm hecta đất để tổ chức sản xuất kinh doanh của mình. Có nơi địa phương giao đất nhưng các DN không sử dụng và kết quả là như vừa rồi như ở đồng bằng sông Cửu Long quyết định thu hồi đất giao cho một tập đoàn kinh tế nhà nước vì giao đất 5-6 năm rồi nhưng không sử dụng, tạo sự lãng phí rất lớn.

Thử hỏi, các DN tư nhân nhất là các SME có ai có thể thế được không?

So sánh các khu công nghiệp chẳng hạn. Chúng ta có rất nhiều khu công nghiệp được hình thành cho đến bây giờ phần đất sử dụng chỉ khoảng 50% trong khi đó các SME muốn hình thành cụm DN thì gặp nhiều khó khăn trong việc xin đất. Đó cũng là nghịch lý trên thực tế. Con số mà vừa rồi UB kinh tế của QH đưa ra qua giám sát các DNNN, tập đoàn kinh tế cũng cho thấy bình quân các DNNN vẫn đang sử dụng 50-60% nguồn lực của đất nước mình về nhiều mặt.

Tất nhiên về tín dụng bây giờ thuộc hệ thống ngân hàng là chính nhưng tín dụng chỉ là một phần. Còn đất đai, tài nguyên khác, thậm chí cả quyền kinh doanh... Có những lĩnh vực kinh doanh nhất định kể cả khu vực tư nhân của chúng ta có những trưởng thành đủ khả năng làm được nhưng nhà nước ưu tiên cho các DNNN nhiều hơn.

Bản thân nhà nước cũng là một nhà đầu tư lớn. Trên nhiều lĩnh vực bằng tiền ngân sách, ODA thu hút được vào thì trong hầu hết những công trình nhà nước đầu tư hoặc mua sắm của nhà nước thì nhà nước dành sân đó cho các DNNN chứ không mua từ các SME. Đó là thiệt thòi cho SME bởi vì khi họ tiếp cận nguồn lực khó khăn, mở rộng thị trường, đầu ra ở một khu vực thị trường lớn như vậy mà họ cũng không tiếp cận được.

Có thể nói rằng, phân bổ nguồn lực là vấn đề bức xúc của tôi.

Không chỉ là vấn đề không công bằng trong phân bổ nguồn lực còn có vấn đề về vấn đề hiệu quả sử dụng.

Trên thực tế, có nhiều DNNN chưa sử dụng nguồn lực hiệu quả. Qua các con số kiểm toán NN đưa ra thì thấy hiệu quả, tỷ suất lợi nhuận của các DNNN còn nhiều hạn chế. Nếu như tính hết đất đai mà họ sử dụng thì tỷ suất lợi nhuận còn thấp hơn nhiều.

Trong khi đó, nếu giao cho SME làm thì tôi nghĩ có thể họ có thể làm tốt, hiệu quả cao hơn nhiều.

Mặt khác, về mặt xã hội, DNNN lại không phải là nơi tạo ra nhiều công ăn việc làm cho lao động. Việt Nam cũng như nhiều nước khác rất coi trọng SME, quan tâm tới sự phát triển của họ cũng vì một lý do là SME tạo ra nhiều việc làm cho người dân.

Mỗi năm, chúng ta phải giải quyết việc làm cho một triệu lao động thì hầu hết 90% số việc làm đó lại do SME tạo ra.

Vì thế, ở đây có độ vênh giữa đầu tư rót nguồn lực cho một khu vực không tạo ra được công ăn việc làm nhiều lắm cho người dân với một khu vực tạo ra việc làm cho hàng triệu con người thì lại không được tiếp cận nguồn lực đầy đủ. Khu vực đó nếu được tiếp cận nguồn lực đầy đủ thì hàng triệu người không những có công ăn việc làm mà còn có thể còn có thu nhập cao hơn, đời sống càng ngày càng tốt đẹp hơn.

Ông Cao Sỹ Kiêm: Tôi thấy phân bổ nguồn lực giữa số lượng và kết quả mang lại chưa phản ánh đầy đủ, nguyên nhân hay điểm mốc mấu chốt ở đâu, theo tôi có 3 lĩnh vực: một là về nhận thức, hai là chính sách, ba là cách điều hành.

Về nhận thức, nếu chúng ta khảo sát kỹ, phân tích cho đầy đủ, thu thập nhiều thông tin để chúng ta xác định vị trí, ví dụ như lớn hay nhỏ, anh nào đóng góp nhiều, anh nào đóng góp ít tạo lên cái sử dụng lao động tốt, đóng góp nhiều cho XH... Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu là phát triển kinh tế sao cho có hiệu quả. Nơi nào chúng ta thấy có hiệu quả thì phân bổ nhiều hơn.

Từ những phân tích để chúng ta tìm ra những cái chốt để phân bổ, kể cả sức cạnh tranh. Nếu không, chúng ta không có chính sách đúng được.

Chính sách là tạo ra điều kiện cho những người thụ hưởng, những đơn vị được tiếp cận chủ trương, chính sách này có hiệu quả cao nhất.

Nếu chúng ta nhận định, đánh giá bên trên không đúng không sát, không đúng không đủ thì phân bổ này hoặc là không trúng, mơ hồ, hiệu quả không cao.

Có hai cái trên rồi nhưng điều hành không tương xứng, thì dụ như bộ máy để tạo lên những điều kiện có thông tin, số liệu phương pháp để truyền tải cái này không tương xứng không đủ năng lực đáp ứng thì chắc chắn rằng chính sách có đúng, nhận thức rõ ràng nhưng khả năng điều hành không được thì chắc chắn rằng sẽ hạn chế hiệu quả chính sách chúng ta đưa ra, cái chốt chính ở chỗ đó.

Có những cái lúc đầu tư rất nhiều nhưng hiệu quả không cao, có lúc thấy là hiệu quả cao nhưng không được đáp ứng,  đó là vấn đề cần nghiên cứu thấu đáo, phân tích triệt để để chúng ta có chính sách phân bổ đúng và hiệu quả cao trong nền kinh tế thị trường.

Sản xuất kinh doanh là việc của DN, không phải Nhà nước

Nhà báo Phương Loan: Thưa Thứ trưởng Lê Danh Vĩnh, dưới góc độ là người điều hành, quản lý, ông thấy nhà nước có thể đóng vai trò như thế nào để hỗ trợ cho các DN thực sự tiếp cận với các nguồn lực trong nước cũng như tiếp cận với thị trường trong và ngoài nước đặc biệt trong bối cảnh kinh tế khó khăn hiện nay?

Ông Lê Danh Vĩnh: Hiện nay vai trò chủ yếu của nhà nước, như Bộ Công thương trước hết là ban hành chính sách, xử lý quy hoạch các chiến lược, hỗ trợ thông tin cho các DN nhà nước và ngoài nhà nước. Đây là việc hàng ngày của chúng tôi, còn việc sản xuất kinh doanh là việc của DN.

Trong ngành công thương, có thể nói là các DN TƯ đến địa cung cấp 63%-64% GDP kể cả ngành xây dựng tính cả vào công nghiệp.

Chúng tôi điều hành không phải là can thiệp vào hoạt động của DN từ các tập đoàn hay các tổng công ty. Điều hành sản xuất kinh doanh là việc của các chủ tịch HDQT, Tổng giám đốc. Lãnh đạo Bộ không hề can thiệp hoạt động của DN. Phải nói như vậy cho rõ.

Ngay cả các tập đoàn cũng hoàn toàn độc lập với Bộ, trừ các lĩnh vực năng lượng, dầu khí là những lĩnh vực cốt yếu thì Bộ cũng có ý kiến, còn quản  lý là quản lý toàn bộ nền kinh tế chứ không phải chỉ có DNNN.

Và đối với DN, chúng tôi cung cấp thông tin ví dụ như trang web về thị trường nước ngoài, thị trường xuất khẩu, cung cấp công cụ cho các DN trực tuyến. DN không phải đến Bộ để xin mà đăng ký ngay trên mạng. Chúng tôi tạo mọi điều kiện thuận lợi cho DN làm ăn theo hướng Bộ chuyển từ nhà nước cai trị sang phục vụ.  Bản thân anh em chúng tôi làm việc cần mẫn từ sáng tới chiều.

VNN (Còn tiếp)


Tin khác