Xu thế hợp tác trong sản xuất nông nghiệp

14/10/2010

Hợp tác giữa các chủ thể cùng tham gia vào bất kỳ một chuỗi sản xuất - tiêu thụ một loại sản phẩm nào đó là để mang lại hiệu quả cao cho mỗi chủ thể.

Chuỗi sản xuất - tiêu thụ: “Từ trang trại đến bàn ăn”

Sản xuất nông nghiệp trải rộng trong không gian và trải dài trong thời gian, nhiều, ít tùy thuộc vào từng loại ngành hàng (cây, con). Đối tượng sản xuất nông nghiệp và sản phẩm nông nghiệp là cây, con, những cơ thể sống. Do đó, chất lượng và năng suất, giá trị gia tăng của sản xuất nông sản lại càng phụ thuộc vào chất lượng của sự hợp tác giữa các chủ thể tham gia vào chuỗi ngành hàng, từ cung ứng nguồn lực đầu vào (giống, phân, nước, tiền vốn...), tổ chức sản xuất nông phẩm trên đồng ruộng, vườn cây, chuồng trại, ao hồ nuôi trồng thủy sản, đến mua gom, vận chuyển, chế biến, bảo quản, tiêu thụ nông phẩm.

Hợp tác, xu thế tất yếu của nông nghiệp hiện đại

Hiện nay, quy mô sản xuất của mỗi nông hộ, loại hình tổ chức sản xuất phổ biến trong nông nghiệp còn nhỏ lẻ, thường với 8-10 công đất trồng trọt, vài trăm con gia cầm hay vài chục con heo, bò, 1-2 héc ta hầm nuôi cá... Do đó, liên kết giữa các nông hộ thường dưới các hình thức như tổ đường nước, tổ hay câu lạc bộ khuyến nông và gần đây là tổ thu hoạch lúa bằng máy liên hợp gặt đập. Số lượng nông sản hàng hóa của mỗi nông hộ không nhiều, nên dễ dàng tiêu thụ ở chợ quê, bằng hợp đồng miệng - một hình thức liên kết dựa trên chữ “tín” và thông lệ truyền thống, phi chính thức.

Nhưng phát triển nền nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn và hiện đại trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng, thì sản xuất nông nghiệp nước ta buộc phải thỏa mãn các nhu cầu cao và khắt khe của thị trường:

(i) Sản phẩm có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế về an toàn vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng với giá cả cạnh tranh;

(ii) Đảm bảo khối lượng lớn nông sản cung ứng theo lịch trình thời gian nghiêm ngặt, phù hợp với nhu cầu của công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ;

(iii) Tổ chức kênh phân phối hợp lý, tiết kiệm và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của thị trường, của khách hàng. Điều này tạo thành chuỗi ngành hàng từ “trang trại (nông hộ) đến bàn ăn” hay từ “cái cày đến cái đĩa”. Trong đó, nhiều chủ thể cùng tham gia thực hiện và phân chia giá trị gia tăng được tạo ra trong mỗi chuỗi ngành hàng, từ các nhà cung ứng nguồn lực đầu vào, nhà nông, đến thương lái, nhà chế biến, bảo quản, nhà buôn bán sỉ, bán lẻ và cuối cùng là người tiêu dùng. Các chủ thể này phải liên kết với nhau vì lợi ích của mình và tôn trọng lợi ích của các chủ thể khác trong chuỗi ngành hàng.

Nhà nông và các hợp tác xã

Để đáp ứng được ba yêu cầu nêu trên, nhà nông phải thực hiện sản xuất nông nghiệp theo GAP (Viet GAP hoặc Global GAP), nhà chế biến và nhà buôn phải thực hiện quy trình HACCP (Phân tích mối nguy và điểm kiểm soát trọng yếu hay là hệ thống kiểm soát chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm). Về phía nhà nông, giải pháp có thể là: (1) Quy mô canh tác hay chăn nuôi của mỗi nông hộ gia tăng, nhờ tích tụ và tập trung tư bản và ruộng đất; (2) Các nông hộ nhỏ liên kết trong các hợp tác xã (HTX) để tổ chức lại sản xuất theo phương châm “liền đồng, khác chủ, cùng trà giống”.

Trong điều kiện này, nhà nông và HTX của họ mới có thể áp dụng cơ giới hóa để nâng cao năng suất và thực hiện GAP để bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời tạo ra khối lượng nông sản lớn, cung ứng kịp thời theo yêu cầu của nhà chế biến - bảo quản nông sản.

Khi quy mô sản xuất của mỗi nông hộ (tức trang trại gia đình) và các loại trang trại khác gia tăng thì nhu cầu hợp tác, liên kết trong khâu tiêu thụ nông sản trở nên bức bách. Khi đó, HTX của các chủ trang trại mới có thể ra đời, chủ yếu để giải quyết vấn đề tiêu thụ nông phẩm. Lúc này, HTX là một chủ thể quan trọng trong chuỗi ngành hàng “từ trang trại đến bàn ăn”.

Các HTX này kinh doanh với quy mô lớn, do tiêu thụ một khối lượng nông sản lớn của mỗi trang trại - xã viên, nên mới có thể thuê những nhà chuyên môn có trình độ cao về quản lý và kỹ thuật, nhờ trả lương cao theo mặt hàng của thị trường sức lao động. Vì thế, kinh doanh của HTX và của mỗi trang trại - xã viên, mới đạt hiệu quả cao. Chỉ lúc đó, HTX đích thực mới ra đời và trở thành một lực lượng kinh tế quan trọng của nền kinh tế nói chung và của nền nông nghiệp nói riêng. Từ đó, một xu hướng liên kết khác xuất hiện. Đó là sự liên kết giữa các trang trại lớn và HTX với các doanh nghiệp chế biến - bảo quản nông sản, hình thành và phát triển.

Nhà nông - hợp tác xã và doanh nghiệp

Cùng với quá trình này, vai trò của những thương lái thu gom sẽ giảm dần và có thể họ nhập vào các HTX của các chủ trang trại hay trở thành đại lý mua gom của các doanh nghiệp chế biến - bảo quản nông sản. Trong mối liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến - bảo quản với các HTX và chủ trang trại, doanh nghiệp đóng vai trò “nhạc trưởng”, tổ chức lại sản xuất nông nghiệp của nông dân theo GAP và thực hiện hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp, giải quyết tốt 3 vấn đề mà nhà nông không tự làm được là (i) Thương hiệu và thị trường; (ii) Áp dụng công nghệ mới và (iii) Vốn kinh doanh.

Các doanh nghiệp chế biến - bảo quản nông sản không chỉ bảo đảm việc tiêu thụ nông sản cho nông dân hay HTX, mà còn hướng dẫn nông dân thực hiện GAP, thông qua việc cung ứng giống, vật tư nông nghiệp và dịch vụ khuyến nông (trực tiếp cho các trang trại hay thông qua HTX). Nhờ đó, các doanh nghiệp này mới có nông sản nguyên liệu để chế biến, vừa bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm theo HACCP, vừa đáp ứng đủ khối lượng và thời gian cung ứng sản phẩm theo yêu cầu của thị trường (thông qua xuất khẩu hay các siêu thị trong nước).

Lúc này, sự liên kết giữa nhà nông và nhà doanh nghiệp không thể bằng hợp đồng miệng, mà phải bằng hợp đồng kinh tế theo luật pháp hiện hành. Việc chế tài, buộc nhà nông và nhà doanh nghiệp giữ chữ “tín” mới có cơ sở pháp lý rõ ràng, minh bạch.

Liên kết với các nhà khoa học, các tổ chức tín dụng, với sự hỗ trợ của nhà nước pháp quyền.

Nhưng để giải quyết tốt ba vấn đề trên, nhà doanh nghiệp còn phải liên kết, hợp tác với nhà khoa học để giải quyết các vấn đề công nghệ trong sản xuất nông nghiệp và cả trong chế biến - bảo quản nông sản, liên kết với các tổ chức tín dụng để giải quyết vấn đề vốn cho nông dân và cho chính mình.

 
 Trang trại bò lớn nhất VN

Nhờ đó, thương hiệu nông sản gắn với từng doanh nghiệp mới được xác lập trên thị trường trong và ngoài nước, làm gia tăng giá trị của hàng nông sản.

Ngoài việc tổ chức lại nền sản xuất nông nghiệp, doanh nghiệp chế biến - tiêu thụ nông sản còn phải chủ động bàn bạc với các chủ thể khác, trước hết là với nông dân, HTX, để phân chia lợi ích một cách hợp lý, hài hòa giữa các chủ thể cùng tham gia vào chuỗi giá trị ngành hàng.

Sự liên kết của các chủ thể này phải đặt dưới sự quản lý, bảo vệ và khuyến khích của nhà nước pháp quyền, bằng hệ thống luật pháp rõ ràng, công minh, bằng hệ thống tư pháp xét xử đúng luật đối với các trục trặc, bất đồng giữa các chủ thể trong quá trình hợp tác thực hiện chuỗi giá trị ngành hàng.

Mặt khác, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích sự liên kết trong chuỗi ngành hàng, như tài trợ kinh phí khuyến nông để thực hiện GAP và trả phí để có chứng chỉ sản xuất nông nghiệp theo GAP, giảm thuế cho các doanh nghiệp đứng ra tổ chức sản xuất nông nghiệp theo GAP và bao tiêu nông sản cho nông dân, đặc biệt không nên thu thuế giá trị gia tăng đối với các chủ thể tham gia vào các khâu trung gian của chuỗi giá trị ngành hàng, chỉ nên thu thuế giá trị gia tăng ở khâu cuối cùng (bán lẻ).

Như vậy, nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả cao mới có thể hình thành và phát triển, mang lại lợi ích cho các chủ thể tham gia hợp tác, trước hết là nông dân, nhà chế biến - tiêu thụ và người dân sử dụng nông sản.

PGS.TS Vũ Trọng Khải


Tin khác