Bỏ ngỏ trách nhiệm tái canh cà phê

07/05/2013

Thực tế, nhu cầu "trẻ hoá" vườn cà phê 4-5 năm trở lại đây đã đến mức báo động. Nhưng nguồn vốn để tái canh cũng như trách nhiệm với vùng nguyên liệu khổng lồ này vẫn chưa được các doanh nghiệp (DN) thực sự quan tâm. Trong khi đó ít có DN nào dám lăn xả vào cùng với người nông dân đầu tư vùng nguyên liệu, các DN vẫn chỉ mua nguyên liệu thông qua thương lái và đại lý.

Từ câu chuyện FDI
Cách đây không lâu, trong mùa vụ cà phê năm 2011 khi giá cà phê lên cao kỷ lục, các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tăng cường mua nguyên liệu ở các tỉnh khu vực Tây Nguyên, khiến chỉ trong một thời gian ngắn 6 DN FDI đóng trên địa bàn Đăk Lăk, Lâm Đồng đã mua gom hơn 60% sản lượng cà phê.
Lúc này đại diện cho các DN XK cà phê trong nước, Hiệp hội Cà phê ca cao Việt Nam (Vicofa) đã có văn bản kiến nghị với chính quyền địa phương giám sát chặt chẽ hoạt động thu mua nguyên liệu của các DN nước ngoài.
Nếu không có sự hỗ trợ từ nhiều phía thì bản thân người nông dân không thể nào đầu tư tái canh cây cà phê
 
Trong văn bản kiến nghị của Vicofa có viết: việc các DN nước ngoài tổ chức đại lý thu mua cà phê trực tiếp trong dân đã vi phạm pháp luật Việt Nam, cụ thể là Thông tư số 09/2007/TT-BTM do Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) ban hành. Vì theo quy định tại Thông tư trên thì DN có vốn đầu tư nước ngoài không được phép lập cơ sở để thu mua hàng XK mà chỉ có thể mua hàng thông qua cơ sở kinh doanh của thương nhân người Việt có tư cách pháp nhân.
Vicofa nhấn mạnh rằng việc các DN nước ngoài lập đại lý để thu mua cà phê trực tiếp trong dân là thiếu công bằng, vì họ chỉ “nhảy dù vào vùng nguyên liệu” chứ không đầu tư, hỗ trợ gì cho người dân trong việc trồng và chăm sóc vườn cây. Hiệp hội này cũng cho rằng nếu không được xử lý kịp thời thì ngành cà phê sẽ bị các DN ngoại thâu tóm vì tiềm lực tài chính của họ rất mạnh sẽ đè bẹp các DN XK trong nước.
Tuy nhiên, trên thực tế việc tăng cường mua gom nguyên liệu của các DN FDI không phải hoàn toàn chỉ có những tác động tiêu cực như ý kiến của Vicofa. Ghi nhận tại thời điểm cuối năm 2010 đầu năm 2011, khi các DN FDI mở rộng thu mua cà phê, giá mặt hàng nông sản này đã nhanh chóng tăng lên mức 35.000-37.000 đồng/kg (trước đó chỉ khoảng 27.000-29.000 đồng/kg).
Các đại lý tư nhân tranh thủ mua gom hàng hoá trong dân với giá cao để bán cho DN nước ngoài khiến thị trường cà phê trở nên sôi động và cạnh tranh mạnh mẽ. Trong khi đó hầu hết người dân đều đồng tình, phấn khởi vì họ vừa được các đại lý chốt giá mua cao hơn các năm trước vừa nhanh gọn trong thanh toán.
Như vậy có thể thấy rằng việc các DN FDI đẩy mạnh tham gia thu mua cà phê thông qua các đại lý là một hoạt động tích cực đối với thị trường cà phê trong nước. Vấn đề còn lại ở đây chỉ là ai đầu tư nguyên liệu thì người ấy được ưu tiên mua.
Thực tế không phải các DN Việt Nam đầu tư vùng nguyên liệu nhiều hơn so với DN ngoại. Theo Cục Trồng trọt, hiện cả nước có khoảng 570.000 ha cà phê, trong đó chỉ có khoảng 10-15% diện tích này trực thuộc các nông trường quốc doanh hoặc các DN trung ương và địa phương, còn lại 85-90% thuộc về các hộ nông dân và các chủ trang trại.
Tại Đăk Lăk diện tích trồng cà phê lớn nhất Việt Nam với gần 200.000 ha thì cũng chỉ có 15% là vùng nguyên liệu của các DN, số còn lại là của hơn 189.500 nông hộ. Điều này cho thấy rằng việc vin vào lý do “không đầu tư cho vùng nguyên liệu” để hạn chế việc các DN FDI đẩy mạnh thu mua cà phê chỉ là một cách nói nhằm giảm bớt áp lực tranh mua của các DN trong nước, chứ không phải là tính cho người nông dân.
Chưa kể vài năm trở lại đây, một số DN FDI như Nestlé, Dakman… đã bắt đầu chú trọng liên kết với nông dân trồng hàng trăm ngàn ha cà phê theo tiêu chuẩn sạch. Nếu không cho phép họ thu mua cà phê trực tiếp trong dân thì sự thiếu công bằng thực tế lại nghiêng về phía người nông dân và DN ngoại.
Vốn trẻ hoá cà phê ở đâu
Như phân tích ở trên, phần lớn diện tích cà phê của Việt Nam hiện nay thuộc về các hộ nông dân canh tác nhỏ lẻ. Thống kê của tỉnh Đăk Lăk cho thấy ngoài 15% diện tích cà phê là vùng nguyên liệu của các DN thì hơn 180.000 ha còn lại thuộc về các nông hộ. Trong đó 70% số hộ chỉ canh tác trên diện tích dưới 1ha, các hộ canh tác 5-7 ha chiếm không nhiều.
Theo ngành Nông nghiệp tỉnh này, hiện hơn 50% diện tích cà phê của nông dân trong tỉnh đã quá 15 năm tuổi, cho năng suất thấp, trong khi đó ở Lâm Đồng, thống kê năm 2012 cũng có tới hơn 40.000 ha cà phê có độ tuổi từ 15-30 năm (chiếm hơn 27% tổng diện tích cà phê của tỉnh) cần được tái canh.
Cái khó nhất của việc tái canh, trẻ hoá vườn cà phê hiện nay rõ ràng là nhu cầu vốn. Để trồng mới một ha cà phê người dân sẽ phải bỏ ra khoảng 100 triệu đồng. Số tiền này được đầu tư cho cây giống, phân bón, chi phí cải tạo đất trồng và chuyển giao kỹ thuật công nghệ. Chưa nói đến việc xoay thế nào để có 100 triệu đồng để tái canh, hiện nay điều quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ tái canh cà phê, là hầu hết người dân chỉ trông vào vườn rẫy.
Với lợi nhuận thu được khoảng 30 triệu đồng/ha/năm từ vườn cà phê, nếu tính trung bình mỗi nông hộ có 5 nhân khẩu thì thu nhập mỗi tháng của một người dân trồng cà phê hiện nay chỉ khoảng 500.000 đồng. Để trẻ hoá vườn cà phê, ít nhất phải 3-4 năm sau mới có thể tiếp tục thu hoạch. Như vậy, trong vòng 3-4 năm chăm sóc cho cây cà phê lớn, các hộ dân sẽ không có thu nhập để duy trì cuộc sống.
Trong các nghiên cứu của ngành Nông nghiệp nhằm tìm kiếm giải pháp tái canh cà phê hiệu quả, nhiều ý kiến cho rằng để tái canh, các địa phương cần có kế hoạch cụ thể, tăng cường liên kết giữa DN kinh doanh XK cà phê với người nông dân.
Theo ông Đoàn Triệu Nhạn, nguyên Chủ tịch Vicofa, để tránh tình trạng cà phê sụt giảm trong quá trình tái canh, các địa phương cần tập hợp các hộ cà phê nhỏ lẻ lại thành các hợp tác xã (HTX), mỗi HTX có diện tích khoảng vài chục ha, sau đó chia vùng tiến hành tái canh thành nhiều đợt. Đồng thời kết hợp với các DN kinh doanh XK cà phê trên địa bàn của địa phương để giải quyết ổn định đầu ra cho sản phẩm.
Lý thuyết thì có vẻ ổn, tuy nhiên trên thực tế, để làm được việc này không hề đơn giản. Trong vòng vài năm trở lại đây hầu hết các HTX nông nghiệp đều lâm vào hoàn cảnh chung là thiếu vốn để hoạt động và không thể giải quyết được đầu ra ổn định cho sản phẩm của mình. Thực tế cho thấy không chỉ ngành cà phê mà cả các ngành nông sản khác như lúa gạo, cây ăn quả, thuỷ sản… các HTX đều đang thoi thóp, không hấp dẫn được xã viên.
Trong khi đó ít có DN nào dám lăn xả vào cùng với người nông dân đầu tư vùng nguyên liệu. Hiện ở ngành cà phê, chủ yếu các DN vẫn chỉ mua nguyên liệu thông qua thương lái và đại lý, chỉ có một số rất ít DN liên kết với nông dân để xây dựng các vùng cà phê sạch theo tiêu chuẩn UTZ (UTZ Certifild của Hà Lan) và 4C (Bộ Nguyên tắc chung cho cộng đồng cà phê thế giới).
Tuy nhiên, do giá thu mua cà phê sạch không cao hơn giá thị trường nhiều, trong khi quy trình trồng và chăm sóc đòi hỏi đầu tư nhiều hơn, nên đa số người dân không còn hứng thú với những mô hình liên kết này nữa.
Như vậy có thể thấy rằng, giữa DN kinh doanh cà phê với người nông dân hiện nay không có mối liên hệ ràng buộc chặt chẽ. Hầu hết các DN chỉ tập trung vào thu mua chế biến XK chứ chưa có sự đầu tư thoả đáng đối với vùng nguyên liệu trong dân.
Ngay cả khi Vicofa đã tổ chức thành lập Quỹ Bảo hiểm ngành hàng cà phê gần 2 năm nay thu 2 USD/tấn cà phê XK từ các DN thành viên Vicofa với mục đích chi cho việc tái canh và nâng cao chất lượng cà phê, nhưng tính đến nay có rất nhiều DN từ chối khoản phí này. Bởi lẽ họ cho rằng, “sẽ tạo ra sân chơi không bình đẳng” do các DN ngoài Vicofa không phải đóng phí”.
Thiết nghĩ, nếu không có những ràng buộc cụ thể về trách nhiệm của DN đối với việc duy trì phát triển vùng nguyên liệu, thì câu chuyện tái canh sẽ còn tiếp tục là bài toán nan giải của ngành cà phê. Và một khi năng suất cà phê sụt giảm, chất lượng hạt cà phê kém đi sẽ kéo theo nhiều hệ luỵ khôn lường khác.
Theo Thời báo ngân hàng

Tin khác