|
Cần có giải pháp hỗ trợ những nhóm ngành nghề dễ bị tổn thương để nông dân được thụ hưởng thành quả của tăng trưởng (ảnh minh họa - nguồn Internet) |
Tuy nhiên, nếu nhìn vào quy mô và giá trị gia tăng thì các mặt hàng này đang giảm tính cạnh tranh, thậm chí ngay cả trên sân nhà.
Các chuyên gia cho rằng, nguyên nhân chính là do cắt giảm thuế quan khá sâu và khá nhanh.
Vẫn rộng cửa thị trường
TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn (Bộ Nông nghiệp và PTNT) cho rằng, năm 2010, thị trường XK của ngành nông nghiệp hồi phục tốt, có triển vọng và thuận lợi hơn năm 2009. Tuy nhiên, đây cũng là năm thị trường nông sản quốc tế có nhiều biến động, những nước nhập khẩu từ giàu đến nghèo đều có sự thay đổi nhất định về yêu cầu nhập khẩu nông sản.
Bên cạnh đó, thời tiết khắc nghiệt, thiên tai ngày càng nhiều cũng là những nguy cơ có thể khiến sản lượng lương thực giảm, gây thiếu đói cục bộ tại nhiều nước nghèo. Điều này sẽ làm thay đổi cơ cấu nhập khẩu nông sản và ảnh hưởng lớn đến giá cả XK.
Trong nước, các cam kết hội nhập của Việt Nam, tự do hóa thương mại nông sản có mức độ ngày càng cao, tạo môi trường cạnh tranh ngày càng lớn cho nông sản trong nước và nông sản nhập khẩu. Hiện Việt Nam đã giảm thuế suất thuế nhập khẩu xuống 0% đối với một số mặt hàng nông sản của Campuchia, Australia, NewZealand... Trong khi đó, nông sản Việt Nam đang phải đương đầu với nhiều rào cản thương mại, kỹ thuật và chính sách bảo hộ hàng nội địa của các nước nhập khẩu như Luật chống khai thác thủy sản bất hợp pháp của EU (gọi tắt là IUU); đạo luật truy nguyên nguồn gốc đồ gỗ của Hoa Kỳ (Lency)...
Tuy vậy, sau 7 tháng đầu năm 2010, các mặt hàng XK của nước ta đều có mức tăng trưởng tốt. Trong đó, Nhật Bản, EU và Bắc Mỹ đang là những thị trường lớn của Việt Nam. Lợi thế so sánh của thủy sản Việt Nam là giá rẻ, có khả năng đáp ứng loại hàng trung bình. Những mặt hàng khác như đồ gỗ, cao su, hồ tiêu, càphê, rau quả... dự báo cũng tăng trưởng tốt tại các thị trường Hoa Kỳ, EU, Trung Đông...
Ông Lương Lê Phương, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT nhận định, thị trường XK các mặt hàng nông sản vẫn đang rộng cửa, tăng trưởng nông nghiệp đạt mức khá. Nhưng giữ được mức tăng trưởng này lâu dài mới là điều quan trọng, bởi trong nội tại của ngành vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Đầu tư của nhà nước cho nông nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu, thị trường XK gạo, càphê bấp bênh, giá điện, vận tải, phân bón và vật tư nông nghiệp thất thường, gây khó khăn cho người sản xuất.
Giúp nông dân hưởng thành quả tăng trưởng
Thực tế là việc giảm thuế quan theo lộ trình gia nhập WTO không phải là nguyên nhân chính dẫn đến tăng trưởng nông nghiệp cao trong hai năm 2007-2008 mà chủ yếu do sản xuất được mùa, đồng thời giá thu mua các nông sản chính tăng mạnh. Diện tích trồng cây công nghiệp chủ lực tăng nhanh cũng do thay đổi giá cả thế giới và điều kiện thời tiết, chứ không phải do tác động của việc tiếp cận thị trường nước ngoài thuận lợi hơn. Điều này lý giải cho hiện tượng năm 2009, giá của hầu hết các mặt hàng nông sản thế giới sụt giảm, tăng trưởng GDP nông -lâm-thủy sản giảm xuống mức kỷ lục, chỉ còn 1,8%, mức thấp nhất kể từ năm 1991 đến nay.
Đặc biệt, đối với những loại nông sản chưa có lợi thế cạnh tranh, việc cắt giảm thuế nhập khẩu trong 3 năm qua đã tạo ra sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa sản phẩm nhập khẩu và sản phẩm sản xuất trong nước. Ví du, ngành mía đường và bông, mặc dù vẫn được Nhà nước bảo hộ ở mức độ cao, nhưng do năng lực cạnh tranh yếu nên đã và đang bộc lộ yếu kém, thậm chí còn không phát triển được trong điều kiện cạnh tranh hơn.
Đó là chưa kể đến việc Việt Nam đi trước lịch trình cam kết đã dẫn đến một nhóm người sản xuất và tiêu dùng bị thua thiệt, đặc biệt là nông dân. Đơn cử như việc trước sức ép giá tiêu dùng tăng cao, giữa năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định giảm thuế suất thuế nhập khẩu thịt gia cầm từ 30% xuống 12%; thịt bò, lợn từ 20% xuống 12%; ngô từ 5% xuống còn 3%. Ngay sau khi thuế nhập khẩu giảm, các sản phẩm thịt gia cầm nhập khẩu ồ ạt vào Việt Nam, gây áp lực lớn lên ngành chăn nuôi trong nước. Điều này cho thấy các cơ quan Nhà nước còn khá lúng túng trong việc điều chỉnh thuế cũng như xây dựng hàng rào kỹ thuật.
Với những bất cập ấy, các nhà làm chính sách cho rằng, để có thể đảm bảo tăng trưởng ngành nông, lâm, thủy sản bền vững và bước sâu hơn vào sân chơi WTO, cần có những bước đột phá trong việc tạo dựng lợi thế, ứng dụng tiến bộ công nghệ. Đặc biệt là đối với lực lượng lao động nông thôn dễ bị tổn thương trước các cú sốc bên ngoài và bên trong nền kinh tế, họ cần cả những biện pháp hỗ trợ thường xuyên và tức thời. Hay nói cách khác, chính sách đòi hỏi phải có những suy tính, giải trình, sự rà soát thận trọng và được minh chứng. Quan trọng hơn là cần có giải pháp hỗ trợ những nhóm ngành nghề dễ bị tổn thương để nông dân được thụ hưởng thành quả của tăng trưởng.