Biến đổi khí hậu, tác nhân chính gây lên khủng hoảng

12/05/2011

Theo Viện Nghiên cứu chính sách trái đất, có nhiều yếu tố dẫn đến khủng hoảng lương thực như: số người canh tác giảm, cầu nhiều hơn cung, một số quốc gia dùng lương thực để sản xuất xăng, dầu... Nhưng biến đổi khí hậu (BĐKH) được cho là tác nhân chính.

Thế giới “đảo điên” vì thiên tai
Các chuyên gia cho rằng, giá lương thực thế giới tăng cao là do hạn hán, lũ lụt sảy ra trên diện rộng tại nhiều quốc gia, trong đó có nhiều nước xuất khẩu nông sản lớn của thế giới như Nga, Australia... Hạn hán tại Nga khiến các loại lương thực, lúa mì, hoa màu mất mùa, giá các loại nông sản tăng gấp đôi, gấp ba trong những tháng qua, dẫn đến tình trạng thiếu lúa mì trên thị trường thế giới.
Mực nước biển có thể tăng trung bình khoảng 1m vào cuối thế kỷ XXI do hậu quả của băng tan ở các địa cực. Lúa được trồng ở những vùng châu thổ và duyên hải địa hình thấp tại châu Á dễ chịu hậu quả nghiêm trọng nhất do BĐKH. Hiểm họa này có thể khiến 20 triệu hecta đất các khu vực trồng lúa gạo bị nhấn chìm. Thêm vào đó là mối nguy từ lượng khí CO2 và nhiệt độ tăng.
Tổ chức Nông - Lương Liên Hợp quốc (FAO) ước tính, toàn thế giới đang có 1,02 tỷ người thiếu ăn và điều này càng khiến mục tiêu giảm được một nửa tỷ lệ người thiếu ăn vào năm 2015 khó thành hiện thực.
Gần giống như Nga, Trung Quốc cũng đang phải đối mặt với tình trạng hạn hán kéo dài kỷ lục từ 60 năm qua. Có tới 5 triệu hecta đất canh tác từ Hà Nam đến Sơn Đông không nhận được một giọt mưa nào trong nhiều tháng liền. Nếu hạn hán tiếp tục kéo dài, Trung Quốc có nguy cơ mất mùa lúa mì. Trong khi đó, tại Ấn Độ, giá lương thực tăng cao kỷ lục trong vòng 10 năm qua. Nước này đang cân nhắc việc nhập khẩu để ứng phó với tình trạng giá cả lương thực trong nước tăng cao; số liệu của Chính phủ Ấn Độ cho thấy, giá các mặt hàng đã tăng hơn 20% so với năm ngoái.
Chính phủ Nhật Bản cho biết, sau trận động đất và sóng thần ngay 11/3, kinh tế Nhật đã xuất hiện những dấu hiệu suy yếu. Chính phủ nước này phải hạ mức đánh giá đối với một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, bao gồm kim ngạch xuất khẩu, sản xuất công nghiệp và tiêu dùng cá nhân, khi thiên tai làm đình trệ dây chuyền cung ứng và gây nên tình trạng thiếu điện ở nhiều nơi. Xuất khẩu cũng bị ảnh hưởng nặng nề, do những lo ngại về thực phẩm nhiễm xạ.
Trong 1 năm qua, thế giới đảo điên với nhiều hiện tượng thiên tai tồi tệ trong lịch sử: Tình trạng hạn hán kéo dài ở nhiều khu vực, suy giảm nguồn tài nguyên ở nhiều quốc gia, mực nước ở nhiều con sông lớn dần cạn kiệt. Các chuyên gia nhận định, tình trạng ấm lên của trái đất cũng đang đe dọa đến việc sản xuất lúa gạo toàn cầu. Theo một nghiên cứu khoa học, nhiệt độ trái đất ấm lên 1độ C thì sản lượng trên ruộng lúa giảm 10%.
BĐKH, thách thức lớn ở Việt Nam
BĐKH là thách thức lớn nhất của thế kỷ XXI của tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nó tác động tiêu cực trên phạm vi toàn cầu, nhất là đến sản xuất, đời sống và môi trường. Theo tính toán, tình trạng nước biển dâng, mưa bất thường sẽ gây ngập lụt cục bộ, xâm lấn mặn, giảm 2 triệu hecta trong tổng số 4 triệu hecta đất trồng lúa của Việt Nam. BĐKH làm thay đổi điều kiện sản xuất như thiếu nước, thừa nước, tăng nhiệt độ. Những hiện tượng này làm cho đất bị phèn hóa, suy thoái, xói mòn, rửa trôi. Đa dạng sinh học nông nghiệp, cân bằng sinh thái bị thay đổi, kèm theo đó là dịch bệnh bùng phát...
Thiên tai, lũ lụt ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh miền Trung
 
Nếu BĐKH xảy ra theo đúng kịch bản này, Việt Nam phải đối mặt với khủng hoảng lương thực vào cuối thế kỷ XXI, đầu thế kỷ XXII. Thay đổi điều kiện thời tiết khí hậu gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới cơ cấu mùa vụ, khả năng tích lũy quang hợp, vì thế làm gia tăng chi phí đầu tư.
Tới thời điểm này, việc tìm ra giải pháp để thích ứng với BĐKH là rất cần thiết và đang được ngành chức năng và các địa phương nghiên cứu, áp dụng. Tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), mô hình lúa - tôm đã phát huy hiệu quả và cho thu nhập cao. Người dân chuyển từ hai vụ lúa bấp bênh sang một vụ lúa chính và một vụ tôm. Diện tích nuôi tôm tăng từ 45.000ha (năm 2003) lên 120.000ha (năm 2008). Mỗi vụ nuôi tôm nông dân thu nhập tăng thêm khoảng 27,5 triệu đồng/ha.
Nhiều địa phương cũng tính toán việc dịch chuyển từ cây có nhu cầu nước cao sang những cây trồng có khả năng chịu hạn. Việc chuyển dịch cơ cấu mùa vụ có thể làm tăng thu nhập cho nông dân tới 8,5 lần. Dưa hấu, lúa mùa thay cho lúa chiêm ở các tỉnh miền núi phía Bắc cũng giúp thu nhập của nông dân tăng 3,6 lần so với trước đây.
Bên cạnh việc tiến hành các đánh giá toàn diện, dự báo đầy đủ những nguy cơ của BĐKH, việc nghiên cứu và lựa chọn các công nghệ phù hợp là vô cùng quan trọng. Những nghiên cứu này đặc biệt chú trọng đến việc tìm ra các giống lúa mới, các cơ sở phát triển nền nông nghiệp công nghệ cao; gắn công nghệ sinh học với bảo tồn và phát triển nguồn gen; phát triển sản xuất sạch với tiết kiệm năng lượng, nhiên liệu, giảm phát thải nhà kính; phát triển công nghệ, tiến bộ kỹ thuật với các hoạt động thích ứng với BĐKH; chọn tạo, phát triển và chuyển giao các giống cây trồng, vật nuôi, các biện pháp thâm canh thích ứng với BĐKH. Ngoài ra, cần phải xác định, BĐKH là điều kiện, cơ sở để lựa chọn kế hoạch, định hướng phát triển nông nghiệp trong tương lai. 
Ông Robert S.Zeigler, tổng giám đốc Viện Nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI):
Việt Nam có vai trò hết sức quan trọng trong thị trường lúa gạo
Đầu những năm 2000, quỹ lương thực thế giới khá dồi dào, nhưng sau đó cạn dần. Đến đầu năm 2008 thì hầu như bằng không. Hiện quỹ dự trữ đảm bảo đủ lương thực cho 120 ngày (4 tháng). Nhưng gần đây, giá gạo bắt đầu tăng trở lại. Đây là một vấn đề rất đáng quan tâm.
Đối với Việt Nam, các bạn là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Bởi vậy, nếu Việt Nam và các cường quốc xuất khẩu gạo ngừng bán gạo thì giá sẽ tăng lên rất nhanh. Do vậy, tôi mong Việt Nam tiếp tục xuất khẩu gạo, nếu không sẽ gây ra những vấn đề về an ninh lương thực, thậm chí có thể dẫn tới khủng hoảng chính trị cho những nước nhập khẩu gạo lớn trên thế giới.
Để ứng phó với BĐKH, IRRI đã có sự chuẩn bị rất sớm giúp nông dân tiếp cận những phương pháp sản xuất và các giống lúa chống hạn, ngập lụt, mặn... Đó là những giống lúa mà hiện nay khu vực Đồng bằng sồng Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng của Việt Nam đang rất cần trong điều kiện có biến đổi về thời tiết. Trong điều kiện bình thường thì các giống lúa đó có năng suất cao, nhưng khi gặp hạn hoặc ngập úng thì có thể chống chịu được những áp lực đó và vẫn đảm bảo năng suất. Ví dụ, IRRI có những giống lúa chịu ngập từ 2 – 3 tuần nhưng vẫn cho năng suất 7 – 8 tấn/ha.
IRRI đã xây dựng ngân hàng giống với rất nhiều loại giống lúa và đang tìm hiểu những cơ chế căn bản về khoa học của gen nằm trong những giống đó. Từ những hiểu biết đó, IRRI sẽ sử dụng nó trong việc lai tạo giống lúa thích ứng với điều kiện BĐKH. Thứ hai, IRRI cũng có những biện pháp về kỹ thuật để đối ứng với điều kiện BĐKH, như biện pháp tưới tiết kiệm nước.
Việt Nam là quốc gia có vai trò hết sức quan trọng trong việc sản xuất lương thực. Tuy nhiên, thực trạng nông dân có khuynh hướng dùng quá nhiều thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học là rất đáng lo ngại. Điều này không những gây ô nhiêm môi trường mà còn phá hủy đất đai, môi trường sản xuất khiến sâu bệnh ngày càng tăng. Nếu điều đó xảy ra sẽ khiến vai trò “cường quốc” xuất khẩu gạo của Việt Nam không còn giữ mãi được, sẽ gây thiệt hại cho các bạn và ảnh hưởng tới thế giới.
Chính vì vậy, chúng tôi đang nghiên cứu để tìm ra những biện pháp nhằm khuyến nghị Việt Nam và các nước trên thế giới giảm lượng thuốc trừ sâu hóa học không cần thiết để giữ được môi trường, đảm bảo sự bền vững của sản xuất lúa.
 
AGROINFO – Theo Báo Kinh tế nông thôn

Nguồn: http://kinhtenongthon.com.vn/Story/VandeSukien/2011/5/28272.html


Tin khác