Các nhân tố vĩ mô, các vấn đề xã hội và môi trường, những phát triển trong sản xuất và kinh doanh sẽ định hình sâu sắc cục diện của các công ty trong những năm tới.
Các nhân tố vĩ mô, các vấn đề xã hội và môi trường, những phát triển trong sản xuất và kinh doanh sẽ định hình sâu sắc cục diện của các công ty trong những năm tới.|
Thật sai lầm khi cho rằng thành công trong kinh doanh tất cả là nhờ vào quá trình thực hiện. Thị trường sản phẩm, công nghệ và vị trí địa lý thuận lợi là các thành tố cực kỳ quan trọng đối với kết quả hoạt động kinh tế trong dài hạn. Những ngành kinh doanh tồi thường cần có quản trị tốt, tuy nhiên, trong những lĩnh vực như ngân hàng, viễn thông, và công nghệ, hầu như hai phần ba sự tăng trưởng của các công ty phương Tây được niêm yết là nhờ có thị trường và vị trí địa lý thuận lợi. Các công ty nắm được những yếu tố thuận lợi này thì thành công còn nếu không thì thường phải cạnh tranh vất vả. Nhận ra những yếu tố này và phát triển các chiến lược để dẫn đường cho chúng là vấn đề sống còn đối với thành công của công ty.
Các xu hướng vĩ mô
Có mười xu hướng sẽ làm thay đổi cục diện kinh doanh. Trước tiên, chúng tôi xin chỉ ra ba xu hướng vĩ mô sẽ chuyển đổi sâu sắc nền kinh tế toàn cầu.
1. Các trung tâm kinh tế sẽ di chuyển mạnh mẽ, không chỉ trên phạm vi toàn cầu mà còn trên phạm vi khu vực. Do tự do hoá kinh tế, các tiến bộ về công nghệ, sự phát triển của thị trường vốn, và những dịch chuyển nhân khẩu học, thế giới đã bắt đầu tổ chức lại hoạt động kinh tế trên quy mô lớn. Mặc dù chắc chắn sẽ có những cú sốc và thất bại, quá trình này sẽ vẫn được tiếp tục. Ngày nay, Châu á (trừ Nhật Bản) chiếm 13% tổng GDP của thế giới, trong khi Châu Âu chiếm hơn 30%. Trong vòng 20 năm tới, hai con số này sẽ sẽ gần như hội tụ. Một số ngành – ví dụ như sản xuất và công nghệ thông tin, sẽ còn dịch chuyển mạnh mẽ hơn. Câu chuyện không chỉ đơn giản là cuộc đua tới Châu á. Những dịch chuyển nội vùng cũng mạnh mẽ chẳng kém gì những dịch chuyển giữa các vùng. Mỹ vẫn sẽ chiếm một tỷ lệ lớn trong tăng trưởng kinh tế tuyệt đối trong hai thập kỷ tới.
2. Chi tiêu cho khu vực công cộng tăng lên cộng với sự già đi của dân số ở các nước phát triển đòi hỏi khu vực này phải có hiệu quả cao hơn và nhiều sáng tạo hơn. Không có sự gia tăng hiệu quả rõ ràng, các gánh nặng về chăm sóc y tế và hưu trí sẽ làm cho các khoản thuế trở nên không chịu nổi. Vấn đề này không chỉ giới hạn ở các nền kinh tế phát triển. Chính phủ ở các thị trường mới nổi cũng sẽ phải quyết định cung cấp các dịch vụ xã hội như thế nào cho công dân của mình trong khi các yêu cầu đối với sự bảo hộ từ nhà nước như chăm sóc y tế, phúc lợi khi về hưu v.v ngày càng tăng lên. Huy động khu vực tư nhân tham gia cung cấp các dịch vụ xã hội sẽ trở nên phổ biến ở cả các nước phát triển và đang phát triển.
3. Cục diện về người tiêu dùng sẽ thay đổi và mở rộng đáng kể. Trong thập kỷ tới, sẽ có gần một tỉ người tiêu dùng mới tham gia vào thị trường toàn cầu khi mà tăng trưởng kinh tế ở các thị trường mới nổi đưa họ vượt ra khỏi ngưỡng thu nhập hàng năm $5000/ hộ gia đình – từ ngưỡng này, nói chung, người ta bắt đầu tiêu dùng những hàng hoá theo sở thích. Từ nay cho đến năm 2015, sức tiêu dùng của các khách hàng ở các thị trường mới nổi sẽ tăng từ 4000 tỷ đôla lên hơn 9000 tỷ đôla – gần với sức tiêu dùng hiện nay của Châu Âu.
Các xu hướng môi trường và xã hội
Tiếp theo là 4 xu hướng môi trường và xã hội. Mặc dù ít có khả năng dự đoán hơn và ảnh hưởng đối với thế giới kinh doanh cũng ít chắc chắc hơn, nhưng chúng sẽ cơ bản thay đổi cách sống và làm việc của chúng ta.
4. Các mối liên kết công nghệ sẽ chuyển đổi cách sống và cách tương tác của con người. Cuộc cách mạng công nghệ đã có ảnh hưởng đúng như vậy. Tuy nhiên chúng ta mới ở giai đoạn đầu, chứ không phải giai đoạn chín muồi, của cuộc cách mạng này. Các cá nhân, các khu vực công cộng, và các nhà kinh doanh đang học cách để tận dụng tốt nhất công nghệ thông tin trong các quy trình thiết kế và trong phát riển và tiếp cận tri thức. Những bước phát triển mới trong các lĩnh vực như công nghệ sinh học, công nghệ la-de, công nghệ nano đang di chuyển vượt ra khỏi địa hạt của hàng hoá và dịch vụ.
Chuyển giao công nghệ hơn là bản thân công nghệ có thể tạo ra sự dịch chuyển hànhvi. Chúng ta không chỉ làm việc một cách toàn cầu mà còn tức thời nữa. Chúng ta đang tạo ra những cộng đồng và những mối quan hệ theo những cách mới (thực tế, vào năm ngoái 12% những người mới lập gia đình ở Mỹ là nhờ gặp nhau trên mạng). Giờ đây có hơn 2 tỷ người dùng điện thoại di động. Chúng ta gửi 9 nghìn tỷ e-mail mỗi năm. Chúng ta thực hiện 1 tỷ cuộc tìm kiếm trên mạng Google mỗi ngày, hơn một nửa số đó bằng các ngôn ngữ không phải tiếng Anh. Có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử, khoảng cách địa lý không còn là ràng buộc tiên quyết đối với các giới hạn của các tổ chức kinh tế và xã hội.
5. Chiến trường đối với nhân tài sẽ dịch chuyển. Dịch chuyển về lao động và nhân tài sẽ sâu sắc hơn nhiều so với sự di cư việc làm tới những nước có mức lương thấp. Sự dịch chuyển sang những ngành sử dụng nhiều tri thức làm nổi bật tầm quan trọng và sự khan hiếm của những nhân tài được đào tạo tốt. Tuy nhiên, gia tăng hội nhập vào các thị trường lao động toàn cầu đang mở ra những nguồn nhân tài to lớn mới. Số chuyên gia trẻ cấp đại học ở các nước đang phát triển (33 triệu) nhiều gấp đôi các nước phát triển. Đối với nhiều công ty và chính phủ, chiến lược lao động và nhân tài toàn cầu sẽ trở nên quan trọng chẳng kém gì các chiến lược sản xuất toàn cầu.
6. Các hoạt động kinh doanh lớn ngày càng phải chịu sự kiểm soát khắt khe hơn. Khi các hoạt động kinh doanh vươn ra toàn cầu, và khi các nhu cầu về kinh tế đối với môi trường mạnh hơn, mức độ nghi ngờ của xã hội đối với các hoạt động kinh doanh này sẽ tăng lên. ở nhiều nơi trên thế giới, người ta chấp nhận chứ không thực sự hiểu các quan điểm của hệ tư tưởng kinh doanh toàn cầu hiện nay như, giá trị cổng đông, tự do thương mại, quyền sở hữu trí tuệ, và chuyển lợi nhuận về nước. Các vụ bê bối và những rủi ro về môi trường dường như là không thể tránh khỏi và do đó sẽ tạo ra sự phản đối về mặt quy định và chính trị. Xu hướng này không phải chỉ là của 5 năm trước mà là của 250 năm trước. Tốc độ và phạm vi ngày càng tăng của các công ty toàn cầu và sự nổi lên của những công ty toàn cầu thực sự khổng lồ sẽ càng làm tăng những áp lực này trong 10 năm tới.
Kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh lớn, sẽ chẳng bao giờ được yêu mến. Tuy nhiên nó có thể được đánh giá cao hơn. Các nhà lãnh đạo kinh doanh cần phải lập luận và chứng tỏ một cách mạnh mẽ những đóng góp to lớn của kinh doanh đối với xã hội.
7. Nhu cầu đối với tài nguyên thiên nhiên sẽ tăng lên, điều này gây căng thẳng cho môi trường. Tăng trưởng kinh tế mạnh hơn - đặc biệt là ở các thị trường mới nổi – chúng ta đang sử dụng tài nguyên ở mức chưa từng có. Nhu cầu dầu mỏ dự kiến tăng 50% trong hai thập kỷ tới và nếu không có những phát hiện lớn hay các cải tiến triệt để nào, thì nguồn cung sẽ không thể đáp ứng được. Chúng tôi cũng đang thấy những sự gia tăng tương tự đối với nhu cầu của một loạt các hàng hoá. Ví dụ, ở Trung Quốc, nhu cầu cho đồng, sắt, và nhôm đã tăng gần gấp ba lần so với thập kỷ trước.
Các nguồn tài nguyên của thế giới ngày càng cạn kiệt. Thiếu nước sẽ là một ràng buộc trọng yếu đối với tăng trưởng của nhiều nước. Và một trong những nguồn tài nguyên khan hiếm nhất của chúng ta – bầu khí quyển - đòi hỏi phải có sự thay đổi sâu sắc trong hành vi của loài người để gìn giữ cho nó khỏi bị tàn phá thêm nữa. Những cải tiến về công nghệ, quy định, và sử dụng nguồn tài nguyên sẽ là trọng tâm để tạo ra một thế giới mà có thể vừa có được tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ vừa đảm bảo được các yêu cầu về bảo vệ môi trường.
Các xu hướng sản xuất và kinh doanh
Cuối cùng, chúng tôi xin chỉ ra loạt xu hướng thứ ba: các xu hướng sản xuất và kinh doanh, đang điều chỉnh những thay đổi ở cấp độ công ty.
8. Những cơ cấu sản xuất toàn cầu mới đang nổi lên. Cùng với sự thay đổi về quy định thị trường và sự xuất hiện của các công nghệ mới, các mô hình kinh doanh phi truyền thống đang trở nên phát đạt. ở nhiều ngành, một cơ cấu giống như thanh tạ đang xuất hiện với một số ít người khổng lồ ở trên đầu, một đoạn giữa hẹp, và sau đó là một nét cong ở cuối, gồm những người chơi nhỏ hơn, nhưng di chuyển nhanh. Tương tự như vậy, các biên giới công ty đang trở nên mờ nhạt khi những hệ sinh thái liên kết giữa nhà cung cấp, nhà sản xuất và khách hàng nổi lên. Ngay cả những giả thiết cơ bản về cơ cấu cũng đang bị đảo lộn: ví dụ như, sự nổi lên mạnh mẽ của hình thức huy động tài chính bằng cổ phiếu đang thay đổi hình thức sở hữu, các chu kỳ kinh doanh và các kỳ vọng vào kết quả hoạt động của công ty. Các công ty thành công, tận dụng được tính hiệu quả của cơ cấu mới, sẽ có lợi từ những chuyển đổi này.
9. Quản lý sẽ đi từ nghệ thuật đến khoa học. Các công ty lớn và phức tạp hơn đòi hỏi có những công cụ mới để điều hành và quản lý chúng. Thực tế, các công cụ kiểm soát thống kê và công nghệ được cải tiến giúp trong các phương pháp quản lý mới làm cho ngay cả những tổ chức cực kỳ to lớn cũng có thể phát triển được.
Thời kỳ của kiểu quản lý theo “bản năng gốc” đã qua lâu rồi. Các nhà lãnh đạo kinh doanh ngày nay đang áp dụng các kỹ thuật ra quyết định theo thuật toán và sử dụng các phần mềm cực kỳ tinh vi để điều hành các tổ chức của họ. Quản lý theo khoa học đang chuyển từ kỹ năng tạo ra lợi thế cạnh tranh sang định quyền tham gia cuộc chơi.
10. Khả năng có thể tiếp cận thông tin ở mọi nơi đang thay đổi tính kinh tế của tri thức. Tri thức ngày càng sẵn sàng cho sử dụng, đồng thời ngày càng chuyên môn hoá. Minh chứng rõ ràng nhất của xu hướng này là sự gia tăng của các công cụ tìm kiếm (như Google) có thể giúp chúng ta có ngay lập tực một lượng thông tin gần như không giới hạn. Tiếp cận tri thức trở nên hầu như phổ biến. Tuy nhiên, sự chuyển đổi còn sâu sắc hơn nhiều so với khả năng tiếp cận rộng lớn đơn thuần.
Những mô hình mới về sản xuất, tiếp cận, phân phối và sở hữu tri thức đang nổi lên. Chúng ta đang nhìn thấy sự gia tăng các học liệu mở cho phát triển tri thức khi các cộng đồng, chứ không phải các cá nhân, bắt đầu chịu trách nhiệm đối với sự cải tiến. Bản thân sản xuất tri thức đang tăng lên: ví dụ như, số lượng đăng ký cấp bằng sáng chế từ năm 1990 đến năm 2004 đã tăng với tốc độ 20% một năm. Các công ty sẽ cần phải học cách để kiểm soát toàn bộ tri thức mới này nếu không muốn có nguy cơ chết đuối trong một trận lũ của quá nhiều thông tin
Các công ty cần phải thấu hiểu hàm ý của các xu hướng này cùng các nhu cầu của khách hàng và các vấn đề cạnh tranh. Giám đốc điều hành, những người hoạch định chiến lược của công ty, kết hợp được những nhân tố này chắc chắn sẽ thành công.
Ian Davis and Elizabeth Stephenson, McKinsey Web exclusive, January, 2006