 |
Chính sách phát triển KTTT vẫn còn nhiều bất cập, khiến chủ TT gặp nhiều khó khăn
|
Khó tiếp cận vốn
Những năm trước, nhiều địa phương đã không triển khai cấp giấy chứng nhận KTTT (theo Thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ngày 13/06/2000 của Bộ Nông nghiệp và PTNT và Tổng cục Thống kê; Thông tư số 74/2003/TT-BNN ngày 04/07/2003 của Bộ Nông nghiệp và PTNT), bởi giấy chứng nhận KTTT chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, không có giá trị về mặt pháp lý và kinh tế.
Theo Thông tư liên tịch số 69, KTTT được xác định dựa trên quy mô sản xuất và giá trị sản lượng hàng hoá dịch vụ. Về quy mô, TT trồng trọt phải có từ 2ha trở lên với cây ngắn ngày, 10ha trở lên với cây dài ngày; TT chăn nuôi tuỳ thuộc vào từng loại gia súc, gia cầm, với bò thì trên 60 con/trang trại, lợn nái trên 30 con/trang trại, lợn thịt trên 200 con/trang trại…. Về giá trị sản xuất, TT phải đạt từ 50 triệu đồng/năm trở lên. Nhiều ý kiến cho rằng, những tiêu chí đó là không phù hợp, bởi tính ổn định của đa số TT không cao do sản xuất nông nghiệp gặp nhiều rủi ro.
Anh Nguyễn Văn Tâm, chủ TT nuôi thủy sản ở Kim Sơn (Ninh Bình) cho rằng: “Nếu theo tiêu chí cũ, TT của tôi năm thứ nhất, thứ hai có thể đạt 100 triệu đồng nhưng đến năm thứ ba bị thiên tai làm mất trắng, coi như không đạt tiêu chí”.
Điều bất cập nữa là, dù có giấy chứng nhận KTTT nhưng khi thiếu vốn, chủ trang trại cũng không thể lấy giấy này đi cầm cố, thế chấp vay vốn.
Anh Lê Hồng Quân ở xã Yên Mỹ (Thanh Trì - Hà Nội) cho biết: “Rất vất vả gia đình tôi mới được cấp giấy chứng nhận KTTT, nhưng từ khi được cấp đến nay, tôi chưa thấy được quyền lợi gì. Khi cần vốn, mang giấy chứng nhận đến ngân hàng thì họ chối quanh, Nhà nước cũng chưa hỗ trợ nhiều cho KTTT nên chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn khi muốn mở rộng sản xuất”.
Ông Nguyễn Văn Bảy ở xã Quang Châu (Việt Yên – Bắc Giang) cho biết: “Tôi làm TT đã lâu nhưng vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận TT. Từ nhiều năm nay, tôi phải vay ngoài và mượn thêm anh em, bạn bè để đầu tư phát triển sản xuất vì không thể tiếp cận vốn ngân hàng. Thời gian tới, chúng tôi sẽ liên kết thành lập hợp tác xã để có nhiều cơ hội tiếp cận các chính sách ưu đãi”.
Các chủ TT kêu khó tiếp cận vốn dù đã có giấy chứng nhận TT, trong khi đại diện ngân hàng lại bảo rằng, phải có giấy chứng nhận TT mới cho vay. Ông Đào Văn Vũ, Trưởng phòng Tín dụng Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bắc Giang cho biết: “TT muốn vay vốn theo tinh thần Nghị định 41 phải có giấy chứng nhận TT, nếu không chỉ được áp dụng theo đối tượng vay vốn là hộ gia đình, cá nhân. Thực tế, theo kiểm tra, rà soát của chúng tôi thì trong tổng số hơn 2.000 TT trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện nay chỉ có khoảng 70 TT đảm bảo đạt những tiêu chí mới do Bộ Nông nghiệp và PTNT đề ra nên khó tiếp cận nguồn vốn chính sách”. Rõ ràng ở đây ngân hàng và TT chưa thể tìm được tiếng nói chung.
Đầu tư thấp, chưa hiệu quả
Tại Quảng Ninh, tuy KTTT có bước phát triển đáng kể về quy mô, giá trị đầu tư và doanh thu, song mức đầu tư vào TT nhìn chung còn thấp và dàn trải. Các TT chủ yếu phát triển tự phát, chưa có quy hoạch mang tính chiến lược ổn định và lâu dài. Trình độ quản lý và tổ chức sản xuất của các chủ TT còn thấp; trên 70% chưa qua lớp đào tạo nghề; chuyên môn, nghiệp vụ quản lý, kinh doanh yếu; việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế, do đó sản phẩm hàng hoá của TT tạo ra nhiều nhưng khâu chế biến, bảo quản, xây dựng thương hiệu sản phẩm và thị trường tiêu thụ chưa được quan tâm đúng mức.
Ông Lê Văn Hiển, Phó trưởng phòng Nông nghiệp, Sở Nông nghiệp và PTNT Thanh Hóa cho biết: “Hiện nay mô hình chăn nuôi TT tập trung đang bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như: Phát triển chăn nuôi vẫn còn cắt khúc, chưa có sự liên kết chặt chẽ, chưa hình thành liên vùng sản xuất hàng hóa tập trung, sản phẩm chăn nuôi chưa đáp ứng được yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu; chất lượng con giống thiếu ổn định và kiểm soát; vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được quản lý tốt; thủ tục giao đất, cho thuê đất còn nhiều khó khăn; việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rất chậm làm ảnh hưởng tới quá trình đầu tư của các TT”.
Trà Vinh là một trong những tỉnh đầu tiên trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có chính sách đầu tư phát triển KTTT. Từ chỗ chỉ có 76 TT (năm 2001), một năm sau, tổng số TT trên địa bàn tỉnh đã tăng lên 3.200. Tuy nhiên, hiện tỉnh chỉ còn 1.820 TT, phần lớn hoạt động cầm chừng, làm ăn kém hiệu quả.
Chúng tôi đến thăm trang trại nuôi heo của ông Hoàng Văn Hỏn ở huyện Châu Thành (Trà Vinh). Dãy chuồng trại được đầu tư quy mô, trị giá hàng trăm triệu đồng đã bỏ trống. Ông Hỏn kể: “5 năm trước, tôi làm TT nuôi heo nái và heo con. Xui quá, gặp dịch, đàn heo nái 28 con và 200 heo con chết sạch. Tài sản tôi đầu tư vào đây là 300 triệu đồng cộng với 100 triệu đồng vay ngân hàng tiêu tan hết. Ngân hàng đang đòi phát mãi căn nhà tôi ở để trả nợ”.
Theo ông Nguyễn Quốc Huy, cán bộ Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Châu Thành, trước đây huyện có 225 TT nhưng đến thời điểm này chỉ còn 8. Tình trạng này cũng lặp lại ở huyện Tiểu Cần khi lúc cao điểm có đến 232 TT bò giống, heo giống, tôm giống nhưng hiện giờ đã có 115 TT bị khai tử.
Ông Trần Văn Quân, Phó trưởng phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Tiểu Cần cho rằng, các TT phá sản là do dịch bệnh, chi phí đầu vào cao, nhưng giá bán ra thấp hoặc thị trường bấp bênh. Phong trào phát triển KTTT diễn ra ồ ạt vì nông dân háo hức với chính sách ưu đãi của tỉnh nên nhiều hộ chưa đủ điều kiện nhưng vẫn tìm mọi cách thành lập TT.
Không chỉ ở Trà Vinh, mấy năm qua nhiều chủ TT nuôi tôm vùng kháng chiến cũ gồm 6 xã của huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) và một số địa phương của tỉnh Bạc Liêu; các vùng nuôi cá tra ở An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ cũng sống dở chết dở vì thất bát, phá sản, treo ao hầm.
Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và PTNT Đồng Tháp, tỉnh này có hơn 50% chủ TT nuôi cá tra lâm vào cảnh trắng tay. Được biết, lúc thịnh hành Đồng Tháp có hơn 4.600 TT, nhưng nay chỉ còn chưa tới 100.
Chính sách hỗ trợ chưa đến được TT
Trên thực tế, nhiều chủ TT đến thời điểm này vẫn tự bơi, mà chưa được tiếp cận các chính sách ưu đãi. Tại Bến Tre, ngay từ năm 2003, tỉnh đã có chỉ thị và quy định về thực hiện một số chính sách ưu đãi cho KTTT theo hướng khuyến khích phát triển. Thế nhưng đến thời điểm này, tỉnh chỉ cấp giấy chứng nhận cho 432 TT, quá ít so với thực tế hơn 4.000 hộ sản xuất đạt các tiêu chí TT. Nguyên nhân là do cơ sở triển khai chậm, chưa phổ biến rộng trong dân. Trong khi đó, về nguyên tắc chỉ có TT được cấp giấy chứng nhận mới được tiếp cận các chính sách ưu đãi của Trung ương và địa phương.
Theo thống kê, TP.Cần Thơ hiện có 1.330 TT nhưng thực tế chỉ có 4 TT được cấp giấy chứng nhận, do đó khả năng tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi thấp. Có một thực tế khác là không ít hộ dân đạt các tiêu chí TT nhưng lại không muốn đăng ký vì lo ngại khó được hưởng các chính sách ưu đãi, trong khi phải đóng thuế thu nhập.
Theo tiêu chí KTTT của Bộ Nông nghiệp và PTNT mới ban hành, TT trồng trọt, nuôi trồng thủy sản, sản xuất tổng hợp phải đạt về diện tích đất tối thiểu 3,1ha (vùng ĐBSCL và Đông Nam Bộ); 2,1ha đối với các tỉnh còn lại; giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm. Đối với TT chăn nuôi, giá trị sản lượng hàng hóa từ 1 tỷ đồng/năm trở lên. Đối với TT lâm nghiệp, phải có diện tích tối thiểu 31ha và giá trị sản lượng hàng hóa bình quân đạt 500 triệu đồng/năm. Theo tiêu chí này, tỉnh Trà Vinh chỉ còn khoảng 10% trong số 1.820 TT đủ điều kiện, chủ yếu ở lĩnh vực nuôi trồng thủy sản.
Ông Trần Trung Hiền, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Trà Vinh cho biết: “Tiêu chí TT mới sẽ có tác động rất lớn trong việc thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, quy mô sản xuất ra hàng hóa lớn, tạo được sức cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, ở loại hình TT mới đòi hỏi chủ TT phải có năng lực tốt kể cả cơ sở vật chất, vốn... và năng lực điều hành theo cơ chế thị trường. Ngành chuyên môn cũng sẽ tăng cường công tác thẩm định, tái công nhận và kiểm tra, theo dõi định kỳ với các mô hình KTTT sau khi được công nhận một cách chặt chẽ và thường xuyên hơn, tránh việc buông xuôi sau khi đã đầu tư và công nhận như trước đây”.
Từ thực tế trên cho thấy, việc phát triển KTTT không đơn thuần là chuyện tập trung đất cho đủ diện tích hay việc ấn định quy mô dựa vào số lượng con nuôi, cây trồng... Hiệu quả của KTTT cần được xem xét thêm dưới góc độ hàm lượng khoa học kỹ thuật công nghệ được áp dụng trong sản xuất và hiệu quả kinh tế trên từng vùng đất, tập quán sản xuất, quy mô sản xuất tập trung và quy hoạch vùng nguyên liệu ổn định... Có thể việc được công nhận TT sẽ tạo động lực cho người sản xuất nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, liên kết và hình thành mô hình sản xuất khép kín. Tuy nhiên, việc đưa ra các tiêu chí mới về TT mà chưa có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển kể cả về vốn lẫn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật để phát triển bền vững thì người dân vẫn chưa thực sự mặn mà với TT và sự phát triển của nó cũng khó thoát khỏi tính phong trào như hiện nay.
Theo Kinh tế nông thôn
Nguồn:http://www.kinhtenongthon.com.vn/Story/VandeSukien/2011/9/30086.html