Giải pháp phát triển NNHC: Thay đổi hành vi sản xuất

18/09/2019

Dù đi sau nhưng Việt Nam đã vào danh sách 170 quốc gia tham gia sản xuất sản phẩm nông nghiệp hữu cơ (NNHC).

Tuy nhiên, áp lực về sản lượng, giải quyết bài toán kinh tế, thu nhập cho người sản xuất đã khiến cho quá trình phát triển NNHC gặp không ít khó khăn. Đâu là giải pháp để phát triển NNHC bền vững?

Xã viên Hợp tác xã chè La Bằng (huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên) thu hái chè sản xuất hữu cơ. Ảnh: Hoàng Nguyên.

Sản xuất hữu cơ còn khiêm tốn

Bộ Nông nghiệp và PTNT cho biết, hiện nay, Việt Nam có 76.666ha sản xuất NNHC, đứng thứ 7 châu Á và thứ 3 trong các nước ASEAN. Nhưng xét trên tổng diện tích đất nông nghiệp là 26,8 triệu hecta, thì diện tích sản xuất NNHC của cả nước còn khiêm tốn...

Chăn nuôi lợn hữu cơ có 12 địa phương với khoảng 64.200 con, sản lượng thịt hơi gần 6.000 tấn; chăn nuôi gà hữu cơ có ở 6 tỉnh với 273.000 con, sản lượng  922 tấn; chăn nuôi bò hữu cơ có 2 tỉnh là Nghệ An và Lâm Đồng được các tổ chức quốc tế công nhận với sản lượng 3.500 con.

Nuôi trồng thủy sản hữu cơ rất ít địa phương triển khai và chủ yếu theo hướng hữu cơ, sinh thái; đối với khai thác và đánh bắt, chủ yếu dựa vào tiềm năng mặt nước ao hồ tự nhiên. Hiện tại, cả nước có 4 tỉnh có mô hình nuôi trồng thủy sản hữu cơ với tổng diện tích 134.800 ha.

Việt Nam đã có tiêu chuẩn chung đối với sản xuất, chế biến, ghi nhãn sản phẩm hữu cơ; trồng trọt, chăn nuôi hữu cơ cho một số sản phẩm như: gạo, chè, sữa nhưng chưa có tiêu chuẩn đối với các sản phẩm thủy sản, dược liệu, mỹ phẩm, rau, quả, cà phê, hồ tiêu… và chưa có danh mục vật tư nông nghiệp đầu vào như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi… được phép sử dụng trong sản xuất NNHC.

Khó khăn, bất cập trong sản xuất NNHC hiện nay của Việt Nam là do quy mô sản xuất nhỏ lẻ, hiệu quả chưa cao, chủ yếu dựa vào hỗ trợ, chưa có định hướng chiến lược sản xuất, tiêu thụ; sản phẩm chưa đa dạng và chất lượng chưa đồng đều...

Bà Từ Thị Tuyết Nhung, Trưởng Ban điều phối PGS (Hệ thống đảm bảo cùng tham gia) Việt Nam, Hiệp hội NNHC Việt Nam cho rằng, sản phẩm NNHC có thị trường rất tiềm năng, không chỉ riêng ở Việt Nam mà cả trên thế giới. Tuy nhiên, vấn đề là tổ chức sản xuất như thế nào và giám sát chất lượng ra sao để tránh tính trạng khi xuất khẩu sản phẩm không thật sự đúng là sản phẩm NNHC. Đây là bài toán khó mà chúng tôi luôn chú trọng trong việc đảm bảo đúng các tiêu chuẩn khi tham gia vào hệ thống NNHC.

Thời gian qua, vẫn có một số vụ việc về mất an toàn vệ sinh thực phẩm, ảnh hưởng đến sức khoẻ người tiêu dùng. Do đó, người tiêu dùng đã tìm đến những sản phẩm khác tốt hơn, an toàn hơn, chính vì thế, sản phẩm NNHC mới được nhắc đến nhiều. Tuy nhiên, trên thực tế, vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm và NNHC chưa được quản lý một cách triệt để.

Xây dựng niềm tin của người tiêu dùng

Theo bà Nhung, người tiêu dùng không khó tiếp cận các sản phẩm NNHC, mà điều quan trọng chính là niềm tin của họ về NNHC.

Hiện nay, người tiêu dùng có rất nhiều lựa chọn về sản phẩm NNHC trên thị trường. Đối với sản phẩm PGS của chúng tôi, sau hơn 10 năm thì bắt đầu có chỗ đứng trên thị trường, chiếm được niềm tin của người tiêu dùng.

Bên cạnh đó, cũng có nhiều trang trại tư nhân đang sản xuất NNHC, xuất phát từ việc phục vụ nhu cầu gia đình, sau đó cho bạn bè. Thậm chí, có nhiều trang trại làm rất tốt và sản phẩm của họ còn đạt chứng nhận quốc tế. Đương nhiên là sản phẩm đó có giá thành rất đắt, nhưng người tiêu dùng vẫn mua bởi họ có niềm tin.

“Trước đây, khi chúng tôi sản xuất NNHC thì trên thị trường người tiêu dùng vẫn chưa biết sản phẩm hữu cơ là gì. Khi giới thiệu sản phẩm không sử dụng hoá chất và một loạt phương thức sản xuất đưa ra thì mọi người vẫn không tin. Chính bản thân người nông dân cũng vậy, khi tiếp cận để đào tạo sản xuất NNHC thì họ không tin. Đây là một trong những khó khăn ở thời điểm ban đầu sản xuất NNHC.

Khó khăn nữa là chính sách của Nhà nước để dồn điển đổi thửa, tích tụ đất đai phục vụ sản xuất NNHC. Tiếp đến là chính sách hỗ trợ cho nông dân sản xuất”, bà Nhung nhấn mạnh.

Để tháo gỡ những khó khăn này, Hiệp hội NNHC Việt Nam đã đưa ra các bằng chứng về sản phẩm NNHC có thể làm thay đổi hành vi của người nông dân trong sản xuất. Quan trọng nhất là họ phải tự chịu trách nhiệm với chính sản phẩm làm ra đến tận bàn ăn của người tiêu dùng; đồng thời có thể tự sản xuất trên chính mảnh đất của họ. Chính điều này cũng làm thay đổi quan niệm và cách nhìn nhận của người tiêu dùng về NNHC.

“Chính phủ ban hành Nghị định 109/2018/NĐ-CP về NNHC đã mở ra hướng phát triển cho ngành NNHC. Trên cơ sở đó, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã xây dựng thông tư hướng dẫn; Bộ Khoa học và Công nghệ cũng đã ban hành Bộ tiêu chuẩn TCVN 11041:2017 về NNHC để tổ chức triển khai… Tuy nhiên, để thị trường NNHC phát triển lành mạnh thì Chính phủ cũng cần có chính sách để giám sát thị trường này,” bà Nhung bày tỏ quan điểm.

Xu hướng phát triển 

Tại hội thảo “Đề xuất giải pháp phát triển NNHC tại Việt Nam” do Bộ Nông nghiệp và PTNT tổ chức mới đây, các đại biểu đều nhận định, hệ thống canh tác NNHC đã và đang là xu hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới khi áp lực về lương thực giảm, áp lực vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng nông sản và môi trường tăng. Tuy nhiên, NNHC Việt Nam vẫn đứng trước những thách thức, bởi chưa có cơ chế, chính sách đặc thù đủ mạnh để khuyến khích phát triển. Hệ thống chứng nhận, tiêu chuẩn, quy chuẩn, giám sát chưa hoàn chỉnh; các hộ sản xuất vẫn là tự nguyện…

Theo ông Olivier Catrau (Viện Quốc gia về Xuất xứ và chất lượng, Bộ Nông nghiệp Pháp), Việt Nam cần xây dựng một tiêu chuẩn cho phép nông sản có thể tiêu thụ cả trong nước và xuất khẩu. Chú trọng thông tin, tuyên truyền để người sản xuất có hiểu biết đầy đủ, chính xác về nguyên tắc và quy định đối với thực hành NNHC. Hiểu biết tốt sẽ giúp thực hành tốt hơn.

Bộ Nông nghiệp và PTNT đang xây dựng dự thảo Đề án “Phát triển NNHC giai đoạn 2020 - 2030”, nhằm mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam đứng trong top 15 của thế giới về NNHC.

Theo dự thảo, đến năm 2025, diện tích cây trồng hữu cơ đạt khoảng 1,5-3% tổng diện tích gieo trồng; chăn nuôi có  5-10% sản phẩm hữu cơ (riêng đối với ong và sản phẩm từ ong khoảng 40-50% hữu cơ); khoảng 2-3% diện tích nuôi trồng thủy sản đạt tiêu chuẩn hữu cơ, tương đương 60.000 ha.

Đến năm 2030, diện tích cây trồng hữu cơ đạt khoảng 7-10% diện tích gieo trồng (riêng đối với các cây dược liệu, hương liệu và các sản phẩm từ thiên nhiên, diện tích hữu cơ đạt khoảng 40-50%), năng suất cây trồng hữu cơ đạt khoảng 95-100% năng suất cây trồng thường; vật nuôi có 5 - 10% sản phẩm hữu cơ; thủy sản có khoảng 7-8% diện tích, tương đương 100.000ha, sản lượng khoảng 500.000 tấn.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Trần Thanh Nam cho biết, trong các giải pháp triển khai đề án, sẽ chú trọng đến giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, nông dân tham gia phát triển NNHC. Cùng với đó là xây dựng hệ thống phân phối sản phẩm trên phạm vi cả nước để đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước đang tăng cũng như hướng đến xuất khẩu.

Hiện, Việt Nam đã kết nối được với một số tổ chức quốc tế quan trọng như: Liên đoàn các phong trào NNHC quốc tế (IFOAM), Liên đoàn các phong trào hữu cơ châu Á (IFOAM Asia), Tổ chức chính quyền địa phương về NNHC (ALGOA), cùng nhiều quốc gia có nền NNHC tiên tiến. Đây là điều kiện thuận lợi thúc đẩy việc chứng nhận các sản phẩm NNHC theo tiêu chuẩn quốc tế, hướng tới mục tiêu xuất khẩu.

Dự kiến trong quý IV/2019, dự thảo sẽ được trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và ban hành.

Theo thống kê từ Bộ Nông nghiệp và PTNT, chi phí sản xuất cho 1ha cây trồng hữu cơ, hoặc 1 tấn thịt hơi hữu cơ (lợn, gà, bò) cao hơn 1,15-1,3 lần, nhưng lại cho doanh thu cao hơn 1,5-1,7 lần so với trồng trọt, chăn nuôi truyền thống.

Đến nay, tổng mức tiêu thụ sản phẩm hữu cơ hàng năm tại Việt Nam khoảng 500 tỷ đồng, trong đó, riêng Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh khoảng 400 tỷ đồng.

Đáng chú ý, Việt Nam hiện có gần 20 đơn vị xuất khẩu các loại rau quả hữu cơ sang thị trường Pháp, Đan Mạch, Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển, Trung Quốc, Mỹ… Tổng sản lượng xuất khẩu hàng năm đạt khoảng 260.000 tấn, giá trị trên 15 triệu USD. Một số mặt hàng thủy sản hữu cơ cũng đã đến được nhiều quốc gia với mức giá cao hơn khoảng 30% và tổng giá trị ước đạt trên 10 triệu USD/năm.

Cà phê, gạo, điều, hạt tiêu hữu cơ cũng bước đầu xuất khẩu thành công, dù sản lượng chưa nhiều.

Theo Kinh tế nông thôn


Tin khác