Việt Nam trong thập niên tới và giai đoạn xa hơn: Các vấn đề chiến lược then chốt

06/06/2011

Có thể nói, năm 2011 đến năm 2020 là một giai đoạn mới trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Sau khi đã trở thành một nước có thu nhập trung bình, Việt Nam không chỉ cần phát huy những thành quả đã đạt được mà còn phải giải quyết thành công một loạt những thách thức mới trên con đường đi lên để trở thành nước công nghiệp hóa vào năm 2020 như những mục tiêu đề ra cho đất nước.

Trong một báo cáo với tiêu đề "Từ quốc gia thu nhập thấp trở thành quốc gia công nghiệp hóa: Việt Nam trong thập niên tới và giai đoạn xa hơn" do Ngân hàng Thế giới và Viện Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp thực hiện đã đề cập đến những thách thức mà Việt Nam đang đối mặt trên con đường tiến lên thành một nước công nghiệp hóa và đưa ra các đề xuất và giải pháp để giải quyết các thách thức.
Báo cáo cho rằng, kể từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới với việc thực hiện những cải cách kinh tế sâu rộng, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, và đã ra khỏi danh sách các nước nghèo để trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp. Bước tiến đầy ấn tượng này đã đem lại nhiều cơ hội mới nhưng cũng đi kèm với những thách thức mới cần phải vượt qua để Việt Nam có thể trở thành nước công nghiệp và không rơi vào “Bẫy thu nhập trung bình”. Những thách thức xuất phát từ những thay đổi của bối cảnh trong nước và bối cảnh toàn cầu. Theo báo cáo này, ở trong nước, Việt Nam cần duy trì được mức tăng trưởng bền vững để có thể cơ bản trở thành quốc gia công nghiệp hóa vào năm 2020, và tránh được “Bẫy thu nhập trung bình” mà nhiều nước khác ở Đông Nam Á đã hoặc đang có nguy cơ mắc phải. Để duy trì được được mức tăng thu nhập quốc gia một cách bền vững, về mặt cơ cấu, mỗi đất nước cần phải thực hiện thành công ba sự chuyển đổi, đó là: 1. Chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng dựa trên việc gia tăng sử dụng các yếu tố đầu vào sang tăng trưởng dựa vào năng suất và hiệu quả do trí tuệ của con người Việt Nam tạo ra; 2. Chuyển từ việc đa dạng hóa sản phẩm sang chuyên môn hóa dựa vào nâng cấp/đổi mới công nghệ, phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ; 3. Chuyển đổi từ chế độ “nhân trị” sang chế độ pháp quyền dựa vào các thể chế mạnh và cơ chế quản trị nhà nước hiện đại.
Trong quá trình thực hiện và quản lý quá trình chuyển đổi này, Việt Nam có thể tham khao nhiều bài học thành công và thất bại ở châu Á, và tính đến bối cảnh đã thay đổi như trên cùng với những thách thức mang tính đặc thù đối với quốc gia.
Theo báo cáo, những thách thức đối với Việt Nam có nguồn gốc liên quan đến bối cảnh trong nước và quốc tế đang thay đổi, đó là: Cơ cấu nền kinh tế ngày càng phức tạp với mối liên hệ tác động qua lại chặt chẽ giữa các bộ phận khác nhau của nền kinh tế; việc vay vốn ngày càng trở nên khó khăn hơn đặc biệt là vốn ưu đãi do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 cũng như do Việt Nam đã thành công trong việc trở thành quốc gia có thu nhập trung bình ở mức thấp; ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng kinh tế. Cho đến nay, đã có hai cuộc khủng hoảng trong vòng một thập kỷ. Nó không chỉ làm ảnh hưởng đến tính bền vững của tăng trưởng mà còn lộ rõ những yếu kém của nền kinh tế, tác động mạnh đến các nhóm dân cư dễ bị tổn thương, và ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của đất nước.
Có nhiều ý kiến cho rằng, thách thức lớn nhất được bộc lộ rõ qua diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là những tác động gây mất ổn định kinh tế của các dòng vốn quốc tế. Để quản lý những dòng vốn này một cách có hiệu quả nhằm giảm thiểu rủi ro cần có những biện pháp từng bước cân đối ngân sách, củng cố hệ thống tài chính, các qui định nhằm tăng tính an toàn hệ thống, một nền quản trị hiệu lực và tỉ giá hối đoái linh hoạt.
Thách thức thứ hai bắt nguồn từ sự thay đổi trong cơ cấu sức mạnh kinh tế ở khu vực châu Á. Sự trỗi dậy của Trung Quốc và Ấn Độ đang làm thay đổi thương mại giữa các nước trong phạm vi châu Á, với việc Trung Quốc nỗ lực không mệt mỏi nhằm tìm kiếm các nguồn nhiên liệu và nguyên liệu thô để thúc đẩy tăng trưởng. Sự thay đổi trong thương mại của các nước Đông Á một phần là kết quả của sự thay đổi trong dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) do các công ty đa quốc gia đang áp dụng các phương thức cạnh tranh mới dưới tác động của sự thay đổi của công nghệ. Những thay đổi này đem đến cả cơ hội cũng như thách thức cho Việt Nam. Những cơ hội chính xuất phát từ nhu cầu ngày càng gia tăng đối với các hàng hóa và dịch vụ ở châu Á, giúp Việt Nam có tiềm năng trở thành nơi sản xuất thay thế cho Trung Quốc, cũng như gia tăng thu hút FDI. Nhưng thách thức cũng bắt nguồn từ các nước này như là những đối thủ cạnh tranh lớn. Quản lý những thách thức này yêu cầu cần có các quy định mới đối với FDI để đảm bảo sự bền vững trong phát triển và thúc đẩy chuyển giao công nghệ hiện đại, công nghệ nguồn và nâng cao kỹ năng cho nguồn nhân lực trong nước.
Việt Nam gia nhập WTO vào đầu năm 2007 là một dấu mốc quan trọng, điều này một mặt giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường song mặt khác cũng đặt ra nhiều thách thức. Những thách thức này bao gồm sự gia tăng sức ép cạnh tranh từ phía các công ty và sản phẩm nước ngoài, tự do hóa tài chính trong bối cảnh cải cách chưa được hoàn tất và việc phải từ bỏ một số công cụ chính sách truyền thống không phù hợp với các qui định của WTO.
Để giải quyết những thách thức, báo cáo này đã đề xuất một số nhóm giải pháp, đó là:
Nhóm giải pháp đột phá thứ nhất - phòng tránh rủi ro: Để tránh được các cuộc khủng hoảng cần có các biện pháp đề phòng một cách có hiệu quả các rủi ro trong ngắn hạn và dài hạn. Các rủi ro ngắn hạn bao gồm khả năng xuất hiện các cuộc khủng hoảng tài chính và ngoại hối có thể tạo ra bong bóng giá cả đất đai và sự sụp đổ của chúng. Theo quan điểm của các chuyên gia Việt Nam thì những rủi ro này là đáng kể trong ngắn đến trung hạn. Chỉ bằng những chính sách ứng phó thụ động thì không thể tránh được khủng hoảng mà cần phải chủ động thay đổi qui trình hoạch định chính sách. Cụ thể, cần: 1) củng cố khu vực tài chính trong nước thông qua việc cải thiện các quy định điều tiết và tăng cường hệ thống giám sát, và thiết lập các chính sách tín dụng rõ ràng với việc áp dụng kỷ luật tài chính đối với các doanh nghiệp nhà nước (SOEs); 2) có các giải pháp chính sách kinh tế vĩ mô bổ trợ để kiềm chế lạm phát, giảm thâm hụt ngân sách và thâm hụt tài khoản vãng lai, giảm chênh lệch giữa mức thực tế và tiềm năng của sản lượng, và chuyển sang cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn, và tái thiết lập lại nguồn dự trữ ngoại hối. Để đạt được điều này, quá trình hoạch định chính sách liên quan đến tỷ giá hối đoái và chính sách tiền tệ phải đảm bảo mang tính chuyên nghiệp cao và độc lập với các quyết định của Chính phủ.
Để giảm bớt rủi ro dài hạn, Việt Nam cần thực hiện lập kế hoạch mang tính trung hạn và dài hạn trong đó có tính đến triển vọng của môi trường toàn cầu và các lợi thế cạnh tranh động của đất nước. Trong quá trình thực hiện, cần từ bỏ phương thức lập kế hoạch hiện nay, theo đó trên cơ sở các định hướng phát triển kinh tế-xã hội, các chỉ tiêu định lượng được đặt ra cho các ngành kinh tế quan trọng để làm cơ sở cho việc tính toán cụ thể nguồn lực được phân bổ. Quá trình lập kế hoạch cũng phải đảm bảo sự phối hợp hiệu quả về thể chế và chính sách…
Nhóm giải pháp đột phá thứ hai - Tăng năng suất: Nhóm giải pháp đột phá thứ hai nhằm tác động lên năng suất và hiệu quả. Nhóm này bao gồm những giải pháp liên quan đến nhiều lĩnh vực.
Thứ nhất, Việt Nam cần tiếp tục gia tăng xuất khẩu để tận dụng những cơ hội mà nền kinh tế toàn cầu mang lại cho dù có những ý kiến cho rằng cần điều chỉnh lại định hướng xuất khẩu. Tuy nhiên, vấn đề trọng tâm là phải xác định được chiến lược xuất khẩu có khả năng thúc đẩy tăng năng suất và tránh khai thác thái quá tài nguyên thiên nhiên. Chiến lược này gồm hai nội dung chính.
Một là, điều chỉnh chiến lược xuất khẩu để khắc phục các yếu kém hiện tại và để tận dụng hết các tiềm năng chưa được khai thác hết. Việc điều chỉnh này bao gồm: đánh giá lại cơ chế khuyến khích xuất khẩu và việc thực hiện cơ chế này; đảm bảo rằng các chính sách thương mại và chính sách tỷ giá hối đoái phù hợp với chiến lược xuất khẩu; tập trung vào các nhu cầu tiềm năng và mang tính đặc thù đối với các nhóm hoặc sản phẩm cụ thể nhằm nâng cao giá trị gia tăng nhận được từ các mặt hàng xuất khẩu và khuyến khích nâng cao công nghệ; thúc đẩy các phương thức khai thác bền vững đối với các mặt hàng xuất khẩu dựa vào tài nguyên thiên nhiên; thúc đẩy việc chuyển giao và nâng cấp công nghệ; tạo ra việc làm gắn với nâng cao kỹ năng.
Hai là, tạo thuận lợi hóa thương mại thông qua việc sử dụng nhiều công cụ chính sách, trong đó có bốn ưu tiên chính: tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng trên cơ sở thực hiện phân tích hiệu quả kinh tế - xã hội kỹ lưỡng; tăng cường hiện đại hóa và hợp lý hóa các quy định điều tiết và đổi mới cung cấp dịch vụ trong đó đặc biệt ưu tiên vấn đề chất lượng; tăng cường các thủ tục quản lý hải quan và cửa khẩu để tăng hiệu quả và giảm tham nhũng; hướng tới trở thành cửa ngõ quốc tế cho các nước láng giềng không tiếp giáp với biển.
Thứ hai, cần giải quyết các vấn đề liên quan đến đô thị hóa do quá trình chuyển đổi từ nông thôn sang thành thị đóng vai trò quan trọng nhằm tăng năng suất và qua đó thúc đẩy tăng trưởng và giúp người lao động thoát khỏi đói nghèo. Các giải pháp bao gồm: tổng hợp các thước đo chính xác có so sánh chúng với các thành phố tương tự để có thể đưa ra định hướng tạo thuận lợi cho sự phát triển của đô thị; quan tâm đến thị trường đất đai, quy hoạch và xây dựng nhà ở; cung cấp tài chính cho các dịch vụ cơ sở hạ tầng, trong đó ưu tiên các dịch vụ cơ bản (nước sạch, vệ sinh, giáo dục, và y tế); nối kết với các dự án đô thị thông qua đầu tư về cơ sở hạ tầng giao thông và hậu cần.
Thứ ba, cần quan tâm đến vấn đề tăng cường nguồn nhân lực. Năng lực sáng tạo, nguồn vốn con người và khả năng tạo ra các kỹ năng và năng lực ở cấp độ cao, đóng vai trò then chốt đối với triển vọng tăng trưởng và phát triển dựa vào tri thức của Việt Nam. Để cải thiện nguồn vốn con người cần phải có các giải pháp để: giải quyết vấn đề bất bình đẳng về đầu vào và kết quả của giáo dục; tăng cường kết quả học tập có chất lượng bằng cách hướng trọng tâm vào kết quả chứ không phải là đầu vào; tăng cường hệ thống sáng tạo quốc gia bằng cách tăng cường năng lực cho các nhà quản lý khoa học và công nghệ ở cấp trung ương và địa phương cũng như các thể chế và cơ quan quản lý nghiên cứu và phát triển (R&D).
Thứ tư, cần có các giải pháp để đảm bảo ổn định xã hội, chăm lo an sinh xã hội trong đó có tính đến sự thay đổi trong đặc tính của nghèo đói. Sự thay đổi này phát sinh do có sự không đều giữa các nhóm dân cư trong việc tham gia và hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế, việc giúp những người vẫn còn nghèo thoát khỏi đói nghèo ngày càng trở nền tốn kém hơn, tác động của chính sách đến nhóm cận nghèo có xu hướng suy giảm, và sự gia tăng rủi ro và tính dễ bị tổn thương sau khi Việt Nam gia nhập WTO và tiếp tục đẩy mạnh hội nhập. Các giải pháp cần tính đến các khía cạnh khác của phúc lợi, bên cạnh các tiêu chí về thu nhập/chi tiêu hiện đang được sử dụng rộng rãi. Hơn nữa, sự tham gia và tính đại diện của người nghèo trong quá trình hoạch định chính sách sẽ ngày càng trở nền quan trọng trong bối cảnh xã hội ngày càng trở nền đa dạng, dẫn đến mâu thuẫn về lợi ích giữa các nhóm dân cư khác nhau có xu hướng ngày càng gia tăng.
Nhóm giải pháp đột phá thứ 3 - Tăng cường quản trị nhà nước: Mặc dù Việt Nam đã đạt được những tiến bộ trong cải cách hành chính và quản trị Nhà nước, bao gồm việc phân cấp song vẫn còn nhiều việc cần phải làm trong việc nâng cao trách nhiệm giải trình trong khi các mâu thuẫn giữa các lợi ích đang trở nền ngày một rõ nét. Chất lượng của quản trị Nhà nước ở Việt Nam hiện đang bị ảnh hưởng bởi nạn tham nhũng. Cùng với nạn tham nhũng là sự lạm dụng quyền hạn, ví dụ như trong việc phân bổ đất đai, vốn, và giấy phép, đang có khả năng làm tăng thêm bất bình đẳng về thu nhập trong xã hội Việt Nam.
Tăng cường quản trị Nhà nước đóng vai trò then chốt đối với sự thành công của một số “giải pháp đột phá” liên quan đến khu kinh tế tự do (FEZ) và các tập đoàn kinh tế lớn (LEG). Mặc dù là mới đối với Việt Nam song những giải pháp này đã được thử nghiệm ở nhiều nước khác với một số thành công.
Việc thúc đẩy sự phát triển của các tập đoàn kinh tế lớn đa sở hữu có thể đem lại những lợi ích đáng kể theo kinh nghiệm của các nước khác như Hàn Quốc và Trung Quốc, song cũng có không ít các rủi ro. Những rủi ro đó bao gồm làm giảm năng suất và hiệu quả chung, do các tập đoàn này có thể chi phối thị trường và những ưu đãi mà các tập đoàn này nhận được có thể làm phát sinh những rủi ro mới trong khu vực doanh nghiệp nhà nước và hệ thống ngân hàng đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây.
Những rủi ro này có thể được điều chỉnh bằng các quy định chặt chẽ và giám sát hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế lớn. Chẳng hạn, các tập đoàn kinh tế lớn không được phép sở hữu hoặc kiểm soát các tổ chức tài chính. Chỉ hỗ trợ cho các tập đoàn kinh tế lớn nếu chúng thỏa mãn được các điều kiện: có tính kinh tế qui mô trong lĩnh vực mà tập đoàn hoạt động; đóng góp cho sự mở rộng thị trường của các doanh nghiệp tư nhân khác; thể hiện được năng lực bắt kịp về năng suất và hiệu quả với thế giới; giúp nâng cấp trình độ công nghệ - hoặc là trực tiếp hoặc là thông qua hiệu ứng lan tỏa đến các doanh nghiệp khác ở trong nền kinh tế….
Có thể thấy, không phải tất cả những giải pháp này có thể đem lại kết quả nhanh chóng. Một số giải pháp, cũng giống như các cuộc cải cách thể chế và quản trị khác, sẽ gặp nhiều khó khăn và thách thức trong quá trình thực hiện. Những khó khăn này đòi hỏi cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng và tạo ra sự đồng thuận, song điều đó không phải là lý do để làm chậm trễ việc triển khai các giải pháp chiến lược. Nếu không được thực hiện sớm thì nguy cơ không đạt được mục tiêu phát triển dài hạn của Việt Nam sẽ tăng lên.
AGROINFO – Theo Báo Đảng Cộng sản

Nguồn:http://cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30066&cn_id=462638


Tin khác