Bài 6. Mô hình Viện trưởng kiêm Chủ tịch HĐQT công ty ở Trung Quốc.

30/05/2007

Giáo sư Lý Bình, Viện trưởng Viện nghiên cứu lúa Tư Xuyên (TQ) vừa tới thăm toà soạn NNVN. Ông là chuyên gia hàng đầu về lúa lai ở Trung Quốc, đồng tác giả giống lúa nổi tiếng D.ưu 527 đang được gieo cấy phổ biến tại mièn bắc Việt Nam. Thế nhưng, câu chuyện của chúng tôi với GS Lý Bình lần này không phải việc nghiên cứu, chọn tạo giống lúa lai mà là cơ chế, kinh nghiệm tổ chức, phát triển khoa học nông nghiệp của Trung Quốc.

Bài 1: Bó chân, bó tay

Bài 2: Một đề tài 9 chữ ký

Bài 3: Từ chối thực hiện đề tài tiền tỷ

Bài 4: 115 trong quán cà phê

Bài 5. “115 không bắt tất cả các nhà khoa học đi kinh doanh”

Thưa TS Trung Quốc đang phát triển các viện nghiên cứu theo hướng nào, mối quan hệ giữa tổ chức khoa học – công nghệ và doanh nghiệp ra sao?

Tại Trung Quốc, các tổ chức khoa học – công nghệ được phân thành 2 loại. Những cơ sở nghiên cứu cơ bản, chính sách thì được nhà nước cấp kinh phí hoạt động. Những cơ sở nghiên cứu ứng dụng thì hoạt động chủ yếu từ sự hợp tác với các công ty, Nhà nước sẽ rút dần kinh phí. Trước năm 2000, mối quan hệ giữa các viện nghiên cứu và các công ty giống đa phần là việc chuyển giao miễn phí. Việc quảng bá, phát triển những sản phẩm khoa học cũng do chính phủ đầu tư. Từ tháng 7/2000, khi luật bảo hộ giống cây trồng được ban hành, mối quan hệ giữa các viện nghiên cứu và công ty đã có sự thay đổi căn bản. Đó là mối quan hệ hợp tác, phân chia lợi nhuận. Từ năm 2003, một số công ty giống bắt đầu đầu tư, đặt hàng các viện để nghiên cứu ra những sản phẩm theo yêu cầu của công ty. Việc phân chia lợi nhuận là 40% cho nhà khoa học và 60% của công ty.

Thực tế, các mô hình của Trung Quốc khá linh động. Cho phép thành lập công ty trực thuộc viện. Trong Viện nghiên cứu lúa Tứ Xuyên cuả chúng tôi có công ty TNHH nông nghiệp công nghệ cao Xuyên Nông. Hiện nay, doanh thu mỗi năm cuả Viện nghiên cứu lúa Tứ Xuyên là 10 triệu nhân dân tệ (NDT) - khoảng 20 tỷ đồng việt Nam, trong đó hơn 2 triệu NDT là do đại học nông nghiệp Tứ Xuyên cấp, chủ yếu để trả lương; gần 4 triệu NDT là nguồn thu từ thực hiện các đề tài của Nhà nước và hơn 4 triệu NDT là từ thực hiện các hợp đồng chuyển giao cho các công ty giống.

Tại Việt Nam, một số viện nghiên cứu cũng đã thànhlập công ty. Theo GS, mô hình công ty trong viện nên hình thành như thế nào?

Năm 1993, Viện nghiên cứu lúa Tứ Xuyên thànhlập công ty với số vốn ban đầu là 5 vạn NDT. Đến năm 2000, khi chính phủ khuyến khích cổ phần hoá thì công ty chuyển sang hình thức đã sở hữu, huy động vốn từ bên ngoài để sản xuất kinh doanh. Ngoài cổ phần chi phối của viện, còn có phần vốn của hãng hàng không quốc gia Trung Quốc, các nhà khoa học. Hiện nay tôi vừa là viện trưởng vừa là chủ tịch HĐQT công ty. Tôi cho rằng, mô hình công ty cổ phần sẽ phát huy được hiệu quả cao nhất. Là một đơn vị hoạch toán độc lập nên khi triển khai sản xuất giống, công ty cũng phải mua bản quyền của viện.

Theo GS, khả năng ứng dụng thực tiễn của đề tài Nhà nước và đề tài các công ty đặt hàng, bên nào cao hơn?

Tại Trung Quốc, việc phân định giữa đè tài nhà nước và đề tài đặt hàng của các công ty rất rõ ràng. Bộ Khoa học – công nghệ và Bộ Nông nghiệp có những hội đồng khoa học, quy tụ những nhà khoa học hàng đầu trên từng lĩnh vực để thảo ra những đề tài, dự án, thực sự gắn với nhu cầu của xã hội. Đó là những đề tài nghiên cứu cơ bản, mang tính lý luận chứ không yêu cầu làm ra một sản phẩm, chọn tạo một giống cụ thể. Những đề tài này sẽ được tổ chức đáu thầu công khai để chọn ra cơ sở thực hiện. Nhà nước và viện sẽ ký thoả thuận nghiên cứu. Nếu một vài đề tài của viện không hoàn thành thì chắc chắn hồ sơ dự thầu của viện sẽ bị trả lại. Ngược lại, các công ty thì yêu cầu các viện nghiên cứu phải cho ra một sản phẩm cụ thể. Trước khi đặt hàng, các công ty sẽ tiến hành khảo sát khả năng của viện. Nếu được, họ sẽ chuyển tiền đặt cọc cho viện. Người công ty sẽ thường xuyên đồng hành trong quá trình nghiên cứu, nếu nghiên cứu tiến triển tốt thì phía công ty rót tiền nhanh, không thì ngược lại.

Xin hỏi GS câu hỏi cuối cùng, tại Trung Quốc, đời sống của các nhà khoa học ra sao?

Như tại viện nghiên cứu lúa Tứ Xuyên, mặc dù là một viện Nhà nước, nhưng chúng tôi cũng tự chủ tới 80% doanh thu (từ thực hiện qua đấu thầu đề tài của nhà nước và doanh nghiệp). Nhà khoa học sẽ được trả lương theo khả năng nghiên cứu của mình. Do vậy, lương viện trưởng có khi thấp hơn các tổ trưởng bộ môn. Khi thực hiện các đề tài nghiên cứu theo đơn đặt hàng của các công ty, trong 40% lợi nhuận công ty trích lại cho viện, thì gần một nửa trong số này sẽ được phân chia cho những cán bộ trực tiếp thực hiện. Thu nhập của một TS trung bình từ 160 – 200 triệu VNĐ/năm.

Ngọc Tiến

Thứ Hai, 28/5/2007 - số 106 (2691), NNVN


Tin khác