Hợp tác Việt Nam - Liên minh châu Âu trong ứng phó với biến đổi khí hậu

30/09/2024

TCCS - Trong 34 năm qua, hợp tác Việt Nam - Liên minh châu Âu (EU) đã phát triển từ quan hệ một chiều giữa “nước nhận viện trợ và nhà tài trợ” trở thành quan hệ đối tác bình đẳng và cùng có lợi, hợp tác toàn diện và bền vững, ngày càng đi vào chiều sâu trên cơ sở lợi ích chung của cả hai phía. Trong giai đoạn hiện nay, quan hệ đối tác hợp tác toàn diện Việt Nam - EU đã đáp ứng hiệu quả, thiết thực nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược của cả hai bên, góp phần thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững trên thế giới; đồng thời, đóng góp to lớn trong lĩnh vực quản trị toàn cầu nhằm ứng phó với các thách thức toàn cầu mới, nhất là ứng phó với biến đổi khí hậu.

Thách thức toàn cầu lớn nhất đối với thế giới

Thế giới bước vào thập niên thứ ba của thế kỷ XXI với không ít thách thức và biến cố khó lường. Một trong những thách thức nghiêm trọng nhất phải kể tới là biến đổi khí hậu. Thời tiết khắc nghiệt, cực đoan trên khắp thế giới hiện nay trước những tác động của biến đổi khí hậu đang là rào cản không nhỏ đối với quá trình phát triển bền vững của thế giới nói chung và mỗi quốc gia nói riêng. Nguyên nhân bắt nguồn từ lượng phát thải khí carbon quá lớn.

Theo dữ liệu của Trung tâm Dự báo Môi trường quốc gia Mỹ, trong thời gian gần đây, liên tiếp các kỷ lục về nhiệt độ toàn cầu bị phá vỡ; cháy rừng, mưa lớn, lũ lụt xảy ra với tần suất dày đặc hơn tại nhiều nơi trên thế giới. Năm 2023, nhiệt độ trung bình toàn cầu đạt 17,010C - mức cao nhất kể từ năm 1979 đến nay. Sức nóng của Trái đất đã gây ra những hậu quả tàn khốc. Nhiều nơi trên thế giới bị bao phủ bởi biển lửa từ những vụ cháy nghiêm trọng, khiến hàng nghìn người phải sơ tán, hàng loạt tài sản của người dân bị thiêu trụi, phá hủy. Theo Cơ quan theo dõi biến đổi khí hậu Copernicus của EU, vụ cháy rừng xảy ra ở vùng Evros, gần thành phố cảng Alexandroupoli (Hy Lạp, tháng 8-2023) đã phá hủy và thiêu rụi khoảng 808,7km2 rừng - lớn hơn diện tích thành phố New York (Mỹ). Đây là vụ cháy rừng quy mô lớn nhất từ trước đến nay xảy ra ở các nước EU kể từ năm 2006. Cũng trong tháng 8-2023, tại thị trấn lịch sử Lahaina (đảo Maui, Mỹ) xảy ra vụ cháy rừng thảm khốc nhất trong hơn một thập niên qua ở nước này, khiến ít nhất 115 người thiệt mạng, 388 người mất tích, phá hủy gần như hoàn toàn trung tâm du lịch và kinh tế này... 

Cùng với những vụ cháy thảm khốc, biến đổi khí hậu làm gia tăng tần suất và hậu quả nghiêm trọng của các trận mưa, bão. Trận lũ nghiêm trọng nhất xảy ra tại Derna (Libya) vào ngày 10-9-2023, đã nhấn chìm thành phố này trong biển nước, khiến 11.300 người chết, ít nhất 10.100 người mất tích và hơn 40.000 người ở phía Đông Bắc Libya mất nhà cửa. Trước đó, tháng 8-2023, siêu bão Doksuri đã gây ra lũ lụt và sạt lở đất nghiêm trọng ở Philippines, khiến 25 triệu người dân thiệt mạng, hàng chục người mất tích, hơn 50.000 người phải sơ tán và nhiều nhà cửa, hoa màu, đường sá, cầu, cống bị hư hại.

Tháng 10-2023, một trận lũ quét qua bang Sikkim thuộc vùng Đông Bắc Ấn Độ cũng làm ít nhất 14 người thiệt mạng, hơn 100 người bị mất tích và 22.000 người bị ảnh hưởng. Ngoài ra, còn nhiều thảm họa thiên nhiên khác do biến đổi khí hậu gây ra, như mưa lớn, ngập lụt ở Trung Quốc, Mỹ, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Brazil, Tây Ban Nha; hiện tượng băng tan tại Bắc Cực và Nam Cực... Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, diện tích băng tối thiểu năm 2023 thấp hơn 20% so với mức trung bình trong 30 năm qua. Lượng băng biển bị mất đi tương đương gấp gần 10 lần diện tích lãnh thổ New Zealand. Theo số liệu của Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), ước tính trong điều kiện hiện tại, mực nước biển trung bình toàn cầu có khả năng tăng từ 8cm - 29cm vào năm 2030, trong đó các khu vực xích đạo phải hứng chịu nhiều nhất. Đến năm 2070, mực nước biển trung bình được dự đoán sẽ tăng lên tới 70cm. Việc các sông băng tan chảy khiến mực nước biển toàn cầu dâng lên, cùng với mưa lớn sẽ gây ra các trận lũ bất thường, dẫn tới mức độ thiệt hại do thiên tai ngày càng nghiêm trọng. IPCC cảnh báo, sẽ có khoảng 900 triệu người dân sống ở các vùng ven biển rơi vào nguy cơ mất nhà cửa do mực nước biển dâng cao và hậu quả khác của biến đổi khí hậu. Ngoài những ảnh hưởng nặng nề đến đời sống của người dân, mực nước biển dâng còn gây ra những tác động nghiêm trọng hơn đến các khía cạnh về môi trường, pháp lý, chính trị, kỹ thuật, kinh tế, văn hóa và quyền con người.

Có thể nói, chưa bao giờ thế giới đứng trước nhiều khó khăn, thách thức do biến đổi khí hậu gây ra như hiện nay. Bởi vậy, cộng đồng quốc tế cần khẩn trương hành động, tăng cường hợp tác, đoàn kết để giải quyết vấn đề này, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là giảm thiểu phát thải khí nhà kính thông qua hợp tác toàn cầu cùng kết cấu hạ tầng thích ứng. Phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh Tham vọng khí hậu của Liên hợp quốc diễn ra tại thành phố New York (Mỹ) vào ngày 20-9-2023, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Phạm Minh Chính nhấn mạnh, biến đổi khí hậu tiếp tục là thách thức toàn cầu lớn nhất, tác động trực tiếp và gây tổn thất nặng nề đối với phát triển kinh tế, an sinh xã hội và trực tiếp đối với an toàn tính mạng, sức khỏe của người dân. Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho rằng, giải quyết biến đổi khí hậu phải có cách tiếp cận toàn cầu và toàn dân, với những giải pháp đột phá, tổng thể, toàn diện, đổi mới, sáng tạo; đồng thời, kêu gọi cần khẩn trương hơn, hành động mạnh mẽ hơn và có trách nhiệm hơn nữa để hạn chế tối đa mức tăng nhiệt độ Trái đất(1).

Trong khi đó, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres nhấn mạnh, nếu các chính phủ tiếp tục thực hiện những chính sách môi trường giống như hiện tại, thế giới sẽ trở nên nóng hơn 2,8°C vào cuối thế kỷ XXI(2). Điều này đồng nghĩa với việc thế giới sẽ trở nên bất ổn và nguy hiểm hơn. Do đó, ông kêu gọi các nước đặt ra tham vọng về giảm phát thải nhà kính phù hợp với mục tiêu duy trì mức tăng nhiệt độ toàn cầu ở 1,50C, trong đó các nước có lượng phát khí thải nhiều cần đi đầu trong chiến dịch toàn cầu này, các nước phát triển cần đạt phát thải ròng bằng “0” muộn nhất vào năm 2040 và thời hạn này đối với các nền kinh tế lớn mới nổi là vào năm 2050; đặc biệt, các nước phát triển cần hỗ trợ các nước đang phát triển, bởi điều này phù hợp với trách nhiệm chung(3). Hơn nữa, chỉ có tăng cường hợp tác, phối hợp chặt chẽ và đẩy mạnh liên kết giữa các quốc gia với nhau, giữa các quốc gia với các tổ chức kinh tế quốc tế và các tổ chức liên chính phủ, trong đó có sự hợp tác giữa Việt Nam và EU, mới có thể ứng phó được với các thách thức toàn cầu, như biến đổi khí hậu.

Trong khuôn khổ Hội nghị lần thứ 28 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP28), Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trao Kế hoạch huy động nguồn lực thực hiện Tuyên bố chính trị thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) cho Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Ursula von der Leyen và đại diện Chính phủ Vương Quốc Anh_Ảnh: TTXVN

Hợp tác Việt Nam - EU vì sự phát triển bền vững

Chặng đường hợp tác phát triển Việt Nam - EU 

Ngày 28-11-2023, Việt Nam và EU kỷ niệm 33 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1990 - 2023), trong bối cảnh quan hệ giữa hai bên có bước đột phá quan trọng, với việc tích cực triển khai Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA, chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1-8-2020)(4); Nghị viện châu Âu và Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVIPA) vào tháng 12-2022 và xúc tiến để quốc hội các quốc gia thành viên EU phê chuẩn EVIPA(5), đánh dấu bước tiến quan trong trong quan hệ kinh tế Việt Nam - EU.

Có thể thấy, EU - với 27 quốc gia thành viên, luôn là một trong những đối tác quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam cũng như trong việc cùng nhau ứng phó với các thách thức toàn cầu. Việc Việt Nam và EU (khi đó là Cộng đồng châu Âu, với 12 quốc gia thành viên ở Tây Âu) thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1990 là sự kiện quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ đối ngoại và tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam được triển khai theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986). Quan hệ hợp tác Việt Nam - EU được khởi đầu trên các vấn đề nhân đạo, khắc phục hậu quả chiến tranh, tiếp đó là việc ký kết Hiệp định khung về hợp tác giữa hai bên (FCA) vào tháng 7-1995. Từ đó, EU đã đồng hành cùng Việt Nam trong suốt thời kỳ bắt đầu công cuộc hội nhập quốc tế đầy thử thách với nhiều hoạt động hỗ trợ quan trọng.

Một là, EU tích cực hỗ trợ Việt Nam trong hoạch định chính sách và nâng cao năng lực thể chế, từ đó góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Sự hỗ trợ này được thực hiện thông qua nhiều chương trình, dự án khác nhau, tiêu biểu là Chương trình hỗ trợ quá trình chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam (EuroTAPViet) giai đoạn 1994 - 1999 (chương trình hỗ trợ kỹ thuật lớn nhất của EU ở châu Á), Chương trình hỗ trợ chính sách thương mại đa phương (MUTRAP) giai đoạn 1998 - 2017.

Hai là, EU là một trong những nhà cung cấp viện trợ phát triển chính thức (ODA) lớn nhất cho Việt Nam. Giai đoạn 1993 - 2013, ODA của EU chiếm 20% tổng số cam kết của các nhà tài trợ quốc tế đối với Việt Nam, trong đó viện trợ không hoàn lại là 1,5 tỷ euro. Giai đoạn 2014 - 2020, EU viện trợ 400 triệu euro cho Việt Nam, tập trung vào các lĩnh vực năng lượng bền vững và tăng cường năng lực thể chế. Các dự án ODA của EU đã hỗ trợ hiệu quả mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Hai bên còn đẩy mạnh hợp tác trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, bảo tồn di sản, giáo dục, giao lưu nhân dân…

Ba là, Việt Nam và EU cùng có chung quan điểm về cách tiếp cận đa phương, về vai trò của luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương trong quan hệ quốc tế và quản trị toàn cầu. Hai bên thường xuyên trao đổi, tham vấn và phối hợp lập trường trên nhiều vấn đề toàn cầu và khu vực cùng quan tâm, đặc biệt về hòa bình an ninh, ứng phó với biến đổi khí hậu, đại dịch COVID, tự do hóa thương mại dựa trên luật lệ, phát triển bền vững, các thách thức về an ninh phi truyền thống...

Những thành tựu nổi bật trong quan hệ hợp tác Việt Nam - EU

Về các khuôn khổ hợp tác - đối tác, Việt Nam và EU hiện có nhiều khuôn khổ hợp tác sâu rộng, tiêu biểu là: Hiệp định Đối tác và Hợp tác toàn diện Việt Nam - EU (PCA), có hiệu lực kể từ năm 2016, với những cơ chế hợp tác thực chất trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, pháp quyền - quản trị, trong đó bao gồm cả các vấn đề toàn cầu(6); EVFTA và sắp tới là EVIPA; Hiệp định Đối tác tự nguyện về lâm luật, quản trị rừng và thương mại lâm sản (VPA-FLEGT) có hiệu lực vào tháng 6-2019; Hiệp định khung về hợp tác quốc phòng - an ninh (FPA) vào tháng 10-2019; cơ chế Đối thoại nhân quyền hằng năm... Các khuôn khổ hợp tác này đã đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia châu Á có quan hệ toàn diện, sâu rộng nhất với EU và là thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) duy nhất có tất cả trụ cột hợp tác với EU.

Về thương mại - đầu tư, với một thị trường 512 triệu dân, chiếm 22% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thế giới, thu nhập bình quân đầu người gần 40.000 USD/năm, EU là đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam, một trong ba đối tác thương mại và thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam (sau Trung Quốc, Hoa Kỳ). Kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên EU đạt 72,3 tỷ USD vào năm 2023 và Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ hai của EU trong ASEAN (sau Singapore). EU luôn là thị trường Việt Nam xuất siêu lớn thứ hai (sau Hoa Kỳ) với khối lượng hàng hóa ngày càng gia tăng. Tính riêng năm 2023, thặng dư thương mại của Việt Nam với EU đạt 34,3 tỷ USD(7). Ngay sau khi EVFTA có hiệu lực, tháng 8-2020, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU đã đạt 3,25 tỷ USD, tăng 4,65% so với tháng 7-2020 và tăng 4,2% so với cùng kỳ năm 2019. Đặc biệt, tuy bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh COVID-19, song các doanh nghiệp Việt Nam vẫn tăng xuất khẩu hàng hóa sang EU(8).

EU nằm trong nhóm 5 nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất vào Việt Nam cùng với Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore và Đài Loan (Trung Quốc)(9). Tính đến tháng 9-2023, EU có 2.535 dự án đang hoạt động tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký đạt hơn 29 tỷ USD(10). Xu thế đầu tư của EU chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp công nghệ cao, gần đây có xu hướng phát triển sang ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng, văn phòng cho thuê, bán lẻ...). Các nhà đầu tư EU có ưu thế về công nghệ, đóng góp tích cực vào việc chuyển giao công nghệ, tạo ra một số ngành, nghề mới và sản phẩm mới có hàm lượng công nghệ cao, tạo thêm nhiều việc làm mới. Đầu tư của Việt Nam sang EU chưa thực sự nhiều, nhưng các dự án đầu tư này đã góp phần giúp doanh nghiệp Việt Nam khai thác được lợi thế kinh doanh, tiếp cận và mở rộng thị trường EU có sức mua lớn.

Hợp tác hướng tới quản trị toàn cầu nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu

Cơ hội thúc đẩy Việt Nam - EU hợp tác trong quản trị toàn cầu

Hiện có khá nhiều cơ hội và thuận lợi để Việt Nam và EU tăng cường hợp tác toàn diện vì mục tiêu phát triển bền vững, trong đó có hợp tác ứng phó với thách thức toàn cầu. Cả hai bên đều có lợi ích và đã cùng nhau tạo dựng đầy đủ các khuôn khổ, cơ chế để đẩy mạnh mối quan hệ này.

Thứ nhất, quan hệ hợp tác toàn diện với EU - trung tâm kinh tế - chính trị quan trọng hàng đầu thế giới - luôn là một trong những định hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Quan hệ Việt Nam - EU còn được củng cố bằng các mối quan hệ song phương giữa Việt Nam với 27 quốc gia thành viên EU, nhất là quan hệ đối tác chiến lược với Đức, Pháp, Italia, Tây Ban Nha; quan hệ đối tác toàn diện với Hà Lan, Đan Mạch, Hungary; quan hệ bạn bè truyền thống với các quốc gia thành viên Đông Âu.

Thứ hai, EU cũng có những lợi ích trong thúc đẩy quan hệ hợp tác với Việt Nam. Ngày 5-11-2020, Phó Chủ tịch Ủy ban châu Âu, kiêm Đại diện cấp cao về an ninh và đối ngoại của EU Josep Borrell nhấn mạnh: Việt Nam giờ đây trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất khu vực, một trong những nước năng động nhất ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Việt Nam là một đối tác song phương hấp dẫn của EU cũng như thông qua tư cách thành viên ASEAN và Liên hợp quốc - nơi Việt Nam đã thể hiện cam kết rõ ràng đối với chủ nghĩa đa phương, trật tự quốc tế dựa trên luật lệ và đối với việc ứng phó với các thách thức toàn cầu(11). Nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn, tốc độ phát triển nhanh và ổn định.  Hiện nay, Việt Nam đã và đang tham gia 19 FTA song phương và đa phương với hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Trong đó, 16/19 FTA đã có hiệu lực với hơn 60 đối tác, phủ rộng khắp các châu lục, với tổng GDP chiếm gần 90% GDP toàn cầu... Đây chính là cơ sở, là nền tảng đưa Việt Nam trở thành một trong những nước dẫn đầu khu vực về tham gia các khuôn khổ hợp tác kinh tế song phương và đa phương(12).

Thứ ba, EU có quan điểm tích cực đối với vấn đề biến đổi khí hậu. Tháng 10-2023, phát biểu tại Diễn đàn Cửa ngõ toàn cầu (GGF) với chủ đề “Cùng nhau mạnh mẽ hơn thông qua đầu tư bền vững”, do EU tổ chức ở Thủ đô Brussels (Bỉ), nhằm huy động nguồn lực cho phát triển bền vững, Chủ tịch Ủy ban châu Âu Ursula von der Leyen khẳng định, biến đổi khí hậu là thách thức nhưng cũng mang lại nhiều cơ hội cho phát triển. Do vậy, các nước cần đẩy mạnh thực thi những chính sách đúng đắn và kịp thời. EU đã tiến hành đồng bộ và kịp thời ba nhóm chính sách kinh tế - xã hội - môi trường cho mục tiêu phát triển bền vững, trong đó đặc biệt chú trọng đối với nhóm chính sách môi trường nhằm huy động công nghệ sạch, năng lượng tái tạo, khuyến khích nguồn vốn tư nhân cùng với nguồn lực chính phủ để đóng góp cho quá trình phát triển xanh trên toàn cầu. Đây là kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam khi thúc đẩy quan hệ với EU nhằm ứng phó với thách thức toàn cầu.

Thứ tư, EU là một đối tác kinh tế quan trọng, có công nghệ cao, công nghệ nguồn và là thị trường có nhu cầu nhập khẩu lớn, đa dạng mặt hàng, đặc biệt những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh, như hàng thiết yếu, hàng tiêu dùng. Nhu cầu nhập khẩu này có tính ổn định, giá cả cao, biên độ lợi nhuận lớn. Việt Nam có thế mạnh là một trong bốn nước châu Á có FTA với EU. EU cũng xác định Việt Nam là đối tác quan trọng và mong muốn hợp tác để đa dạng hóa chuỗi cung ứng, giảm thiểu rủi ro. 

Những khó khăn đối với hợp tác Việt Nam - EU trong thúc đẩy quản trị toàn cầu

Bên cạnh những cơ hội và thuận lợi, quan hệ Việt Nam - EU cũng tồn tại không ít khó khăn đến từ cả hai phía trong xây dựng cơ chế hợp tác và ứng phó với thách thức toàn cầu.

Một là, mặc dù là một trong những trung tâm kinh tế toàn cầu, đồng thời lợi ích và quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư của EU tại khu vực Đông Á - Thái Bình Dương rất lớn, nhưng vai trò chính trị của EU đối với hòa bình, ổn định trong khu vực còn khiêm tốn so với nhiều đối tác quan trọng khác. Điều này một phần do khoảng cách địa lý và EU còn có nhiều mối quan tâm lớn khác ở khu vực cận biên. Quan hệ EU - Việt Nam cũng phụ thuộc vào nhiều vấn đề nội tại của EU, trong đó có xu thế dân túy, bảo hộ, dân tộc cực đoan, hậu quả nặng nề do đại dịch COVID-19 đã và đang tác động nhất định đến việc thúc đẩy quan hệ hợp tác song phương.

Hai là, cuộc xung đột Nga - Ukraine nổ ra kể từ tháng 2-2022 đến nay chưa có hồi kết, dẫn đến nền kinh tế EU tiếp tục bị gián đoạn, tăng trưởng thấp và khó phục hồi. Thị trường khí đốt biến động mạnh mẽ, nguồn cung năng lượng ngày càng thiếu hụt. Ngoài ra, thị trường hàng hóa cũng bị tác động nặng nề(13). Mức tăng trưởng GDP của EU nói chung, khu vực đồng eurozone nói riêng trong năm 2023 đạt mức thấp là 0,5%. Năm 2024, mức tăng trưởng GDP dự kiến sẽ phục hồi ở mức khiêm tốn là 1,6% đối với EU và 1,5% đối với khu vực eurozone. Lạm phát giảm nhanh và tiền lương tăng mạnh là những yếu tố thúc đẩy thu nhập khả dụng thực tế của các hộ gia đình, mang đến sự phục hồi trong tiêu dùng cá nhân. Việc thắt chặt chính sách tiền tệ dự kiến sẽ có tác động mạnh mẽ hơn trong năm 2024. Đối với thị trường lao động, tỷ lệ thất nghiệp của khu vực eurozone tăng lên 7% vào năm 2023. Đây được xem là những khó khăn cản trở sự hỗ trợ của EU đối với Việt Nam trong ứng phó với các thách thức toàn cầu.

Ba là, EU là thị trường tiêu chuẩn cao, hệ thống luật pháp phức tạp; khoảng cách địa lý xa, chi phí vận tải và logistics cao; đặc biệt, sự khác biệt về văn hóa tiêu dùng, trình độ phát triển là những trở ngại không nhỏ đối với hợp tác Việt Nam - EU, nhất là trong ứng phó với thách thức toàn cầu. Các mặt hàng của Việt Nam cần đáp ứng những tiêu chuẩn, quy định của EU, đặc biệt là các quy định mới, như chống phá rừng, tiêu chuẩn carbon, trách nhiệm giải trình,... sẽ tác động mạnh mẽ đến nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và ảnh hưởng tới lợi ích có được từ việc tham gia EVFTA. Để tận dụng cơ hội từ EVFTA mang lại và tiếp cận được những dòng đầu tư với công nghệ cao đến từ EU, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật theo hướng minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế, qua đó góp phần thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững, bao trùm hơn.

Bốn là, hiện nay giữa Việt Nam và EU vẫn tồn tại một số khác biệt, đặc biệt về quan điểm và cách tiếp cận trên các vấn đề dân chủ, quyền con người, nhưng cả hai bên đều đánh giá những khác biệt này là không lớn so với lợi ích tổng thể đang trên đà phát triển của quan hệ Việt Nam - EU. Hai bên cũng đã thiết lập cơ chế đối thoại, hợp tác để xử lý những khác biệt trong quan hệ.

Việt Nam - EU triển khai hợp tác trong quản trị toàn cầu nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu

Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chuyển đổi mô hình kinh tế theo hướng kinh tế số, đổi mới sáng tạo, tăng trưởng xanh, bền vững, hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và phúc lợi xã hội cho người dân. Chuyển đổi xanh, bền vững là xu thế phát triển tất yếu của kinh tế thế giới, cũng là định hướng phát triển của Việt Nam được Đảng và Nhà nước đề ra. Đây là một trong những lĩnh vực trọng tâm tiềm năng và được ưu tiên cao trong hợp tác Việt Nam - EU(14).

Việt Nam đang thực hiện chuyển đổi mô hình kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh, bền vững, hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường (Trong ảnh: Trồng rừng ngập mặn ở Bạc Liêu)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Việt Nam cũng là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường. Do đó, để giải quyết hiệu quả vấn đề này cần có sự chung tay của cộng đồng quốc tế, trong đó hợp tác với EU - đối tác hàng đầu thế giới về biến đổi khí hậu và chuyển đổi xanh - không chỉ giúp Việt Nam giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, mà quan trọng hơn là nâng cao khả năng thích ứng và phát triển bền vững của nền kinh tế, có tác động bao trùm tới toàn thể người dân, doanh nghiệp và xã hội. Hợp tác chuyển đổi xanh cũng mang tính toàn diện với nhiều lĩnh vực quan trọng trong ưu tiên phát triển của Việt Nam, như kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số, kinh tế biển. Việt Nam mong muốn tiếp tục hợp tác chặt chẽ, tập trung vào những lĩnh vực EU có lợi thế và theo xu thế chung hiện nay nhằm phục vụ phát triển xanh, phát triển bền vững, ứng phó biến đổi khí hậu; từ đó, đóng góp cho mục tiêu chung là thúc đẩy quan hệ đối tác và hợp tác toàn diện Việt Nam - EU phát triển ngày càng sâu rộng, thực chất; đem lại lợi ích thiết thực cho người dân và doanh nghiệp hai bên; đồng thời, đóng góp tích cực vào việc duy trì hòa bình, ổn định, phát triển, thịnh vượng ở khu vực và trên thế giới.

Đối với EU, đây là lĩnh vực có thế mạnh hàng đầu. EU cũng đang đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các đối tác đa dạng, vừa đáp ứng nhu cầu của EU về việc đa dạng hóa chuỗi cung ứng, giảm thiểu rủi ro, triển khai chiến lược phát triển xanh, vừa để nâng cao vai trò, vị thế trên toàn cầu. Cộng đồng quốc tế và EU đánh giá cao những cam kết và hành động mạnh mẽ, thiết thực của Việt Nam, bao gồm giảm phát thải khí nhà kính, tham gia Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP), đạt mức phát thải đỉnh vào năm 2030 và trở thành nước trung hòa carbon vào năm 2050(15). EU khẳng định sẽ hợp tác mạnh mẽ với Việt Nam để xây dựng hình mẫu hợp tác kiểu mới giữa EU và khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương trong lĩnh vực quan trọng này. Theo đó, EU sẽ hỗ trợ Việt Nam hiện thực hóa các mục tiêu đặt ra theo 4 hướng: 1- Cấp vốn giúp Việt Nam đạt mục tiêu tăng trưởng mang tính bền vững trong các lĩnh vực cụ thể của nền kinh tế, như giao thông vận tải, giáo dục, y tế, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số… Cụ thể, EU dành trên 300 tỷ euro tài trợ cho các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam; 2- Hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi năng lượng công bằng thông qua Nhóm các nền công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G-7) cùng các đối tác quốc tế khác. Hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi từ năng lượng than sang năng lượng xanh, sạch với số vốn 15,5 tỷ USD từ nguồn ngân sách công cũng như đầu tư tư nhân; 3- Hỗ trợ Việt Nam nghiên cứu và đổi mới sáng tạo. EU có một quỹ đầu tư dành cho các quốc gia trên thế giới, trong đó có những viện nghiên cứu mà Việt Nam có thế mạnh(16); 4- Thúc đẩy hợp tác về quốc phòng - an ninh thông qua Dự án tăng cường hợp tác an ninh với châu Á, qua đó giúp Việt Nam xây dựng năng lực trong lĩnh vực an ninh hàng hải, an ninh mạng.

Ngoài ra, Việt Nam cam kết tiếp tục đóng góp cho an ninh lương thực toàn cầu, duy trì thương mại mở trên cơ sở hệ thống thương mại đa phương dựa trên luật lệ với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) làm trung tâm, đồng thời thúc đẩy nông nghiệp bền vững. Là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất bởi các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, Việt Nam tiếp tục tham gia những sáng kiến và cam kết thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời mong muốn tiếp tục nhận được sự hỗ trợ tích cực của các cơ quan Liên hợp quốc và các đối tác khác trong thúc đẩy tài chính xanh và xây dựng JETP. Việt Nam mong muốn EU sớm gỡ bỏ “thẻ vàng” về chống khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU), tạo điều kiện để hai bên tăng cường hợp tác trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, phát triển nghề cá bền vững, phù hợp với lợi ích sinh kế của ngư dân Việt Nam.

Nhìn chung, hợp tác Việt Nam - EU trong 34 năm qua đã phát triển vượt bậc trên nhiều lĩnh vực quan trọng. Việc chia sẻ tầm nhìn và lợi ích lâu dài trên nhiều phương diện, trong đó có ứng phó với biến đổi khí hậu, giúp mối quan hệ đối tác hợp tác toàn diện Việt Nam - EU ngày càng trở nên đáng tin cậy và bền chặt, góp phần thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững trên thế giới./.

https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/972702/hop-tac-viet-nam---lien-minh-chau-au-trong-ung-pho-voi-bien-doi-khi-hau.aspx


Tin khác