Khung hoạt động chiến lược của Chương trình ARD SPS

14/01/2009

Tầm nhìn cho Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (ARD SPS), 2007-2012, là hỗ trợ Việt Nam trong các nỗ lực giảm nghèo và cải thiện các điều kiện sống của người dân nông thôn, trong đó tập trung vào những nhóm người nghèo dễ bị tổn thương ở miền núi như các dân tộc thiểu số và các hộ với chủ hộ là nữ.

Tầm nhìn và mục tiêu tổng thể

Tầm nhìn cho Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (ARD SPS), 2007-2012, là hỗ trợ Việt Nam trong các nỗ lực giảm nghèo và cải thiện các điều kiện sống của người dân nông thôn, trong đó tập trung vào những nhóm người nghèo dễ bị tổn thương ở miền núi như các dân tộc thiểu số và các hộ với chủ hộ là nữ.

Mục tiêu phát triển của Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là:

“Giảm đói nghèo ở vùng nông thôn, đặc biệt là giữa các dân tộc thiểu số, thông qua phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững đặt trọng tâm vào các miền núi”

Mục tiêu trước mắt của Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là:

“Phúc lợi của các hộ gia đình nông thôn miền núi tăng trưởng bền vững nhờ cải thiện công tác quản lý nguồn lực, hoạt động sản xuất và marketing trong nông nghiệp, chú trọng tới nông dân nghèo miền núi, đặc biệt là phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số” .

Mục tiêu trước mắt của Chương trình chính là mục tiêu phát triển của Hợp phần trung ương và Hợp phần tỉnh của Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Cách tiếp cận và phương pháp luận của Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Những bộ phận nông dân miền núi nghèo nhất đang phải đối mặt với một số thách thức lớn về sinh kế có liên quan chặt chẽ với nhau vì vậy để giải quyết những thách thức này cần phải áp dụng phương pháp dựa vào cấp hộ. Không có giải pháp đơn giản nào cho những thách thức mà họ đang phải đối mặt. Những nhóm dân nghèo này cần phải tối ưu hóa việc khai thác và quản lý cả các nguồn lực tự nhiên và nguồn nhân lực để đảm bảo an ninh lương thực và thoát khỏi nghèo đói. Phương pháp tiếp cận phát triển nông thôn miền núi – và do vậy cũng là chiến lược của Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn- sẽ thể hiện tinh thần đó.

Trọng tâm của Chương trình tập trung vào quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực; các hoạt động của Chương trình sẽ áp dụng phương pháp tiếp cận tổng hợp để phát triển nông nghiệp và nông thôn, nhấn mạnh vào vấn đề an ninh lương thực.

Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã được xây dựng dựa trên những ưu tiên và kế hoạch của Chính phủ như tinh thần của Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo và Kế hoạch phát triển Kinh tế - xã hội 2006-2010, một số kế hoạch phát triển của trung ương, vùng và tỉnh và Kế hoạch 5 năm ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giai đoạn 2006-2010 cũng như các kế hoạch của ngành cho cấp địa phương và cấp tỉnh.

Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ góp phần thực hiện những kế hoạch này, tập trung vào giảm nghèo và công tác phối hợp ở cấp tỉnh và cấp thấp hơn như đã đề ra trong Chiến lược Hợp tác Việt Nam – Đan Mạch về Hợp tác phát triển 2006-2010.

Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phân định rõ ràng giữa trách nhiệm hoạch định chính sách chiến lược ở cấp quốc gia với các trách nhiệm thực hiện tại địa phương. Theo cách tiếp cận này, sẽ có riêng một hợp phần trung ương (quốc gia) và một hợp phần được thực hiện tại cấp tỉnh và các cấp thấp hơn.

Bên cạnh đó, hai Chính phủ cũng nhất trí vận hành các hoạt động của Chương trình thông qua các cơ cấu tổ chức hành chính hiện thời; tránh thành lập thêm các bộ máy quản lý mới hoạt động song song với hệ thống của chính phủ Việt Nam.

Mục tiêu trước mắt của Hợp phần trung ương là:

• "Công tác nghiên cứu, xây dựng chính sách và phổ biến thông tin trong nông nghiệp và phát triển nông thôn ở miền núi được tăng cường chất lượng và phối hợp.

• Các phương pháp tiếp cận mới cho sinhkế bền vững miền núi được phát triển và ứng dụng tại các tỉnh”.

Hiện nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đang trong quá trình cải cách. Hầu hết các chức năng đang được thực hiện sẽ không còn phù hợp với những thách thức mà một nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao đặt ra. Việc hoạch định chính sách.và đánh giá các tác động của nó sẽ trở nên ngày càng quan trọng hơn. Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn mới được thành lập được xem là bộ não chiến lược đồng thời là công cụ để thực hiện những cải cách trong Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Bên cạnh đó, nghiên cứu đã hoặc đang được thực hiện trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn về khu vực miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số còn thiếu tính phù hợp. Để hỗ trợ Chính phủ Việt Nam cải thiện tình trạng này, Hợp phần Trung ương của Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn giai đoạn 2007-12 sẽ nâng cao năng lực hoạch định chính sách dựa trên thực tế và xây dựng các mô hình và phương pháp sinh kế sáng tạo cho miền núi và người dân ở đó. Ngoài ra Hợp phần sẽ hỗ trợ Vụ Khoa học và Công nghệ mở rộng phạm vi nghiên cứu để cấp vốn cho nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn của các viện không thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và để thúc đẩy việc nghiên cứu kết hợp các đề tài về xã hội và kỹ thuật. Hơn thế nữa, kế hoạch phát triển thôn bản có thể kết hợp các kết quả nghiên cứu phù hợp để đảm bảo cách tiếp cận dựa vào nhu cầu và quan tâm đến những điều kiện cụ thể của địa phương trong các nghiên cứu.

Hợp phần Trung ương sẽ có một cơ chế phản hồi hiệu quả theo hai chiều về việc hoạch định chính sách và chiến lược nông nghiệp và phát triển nông thôn, cơ chế này sẽ xuyên suốt từ đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi thông qua tỉnh phản hồi lên cấp hoạch định chính sách quốc gia. !!

Hợp phần trung ương của Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ chú trọng đến công tác phối hợp và tăng cường:

• Chức năng là bộ não chiến lược cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn với các công cụ cần thiết (như tập hợp và phân tích các dữ liệu đáng tin cậy, các cơ chế phản hồi, các chiến lược phổ biến thông tin) để qua đó nâng cao năng lực nghiên cứu chính sách về nông nghiệp và phát triển nông thôn cho khu vực miền núi, chú trọng đến năm tỉnh thuộc Chương trình hỗ trợ ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

• Công tác nghiên cứu chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn

• Hoạch định chính sách trên cơ sở những bài học kinh nghiệm, đặc biệt những bài học đúc rút từ các tỉnh hợp tác thực hiện Chương trình hỗ trợ ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn

• Phản hồi từ cấp tỉnh và địa phương lên các nhà nghiên cứu và nhà hoạch định chính sách quốc gia về: i) tác động của các chính sách và khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, và ii) những thiếu sót theo cách nhìn nhận của địa phương

• Nghiên cứu đổi mới về các mô hình và phương pháp tiếp cận mới trong vấn đề sinh kế cho miền núi.

• Hỗ trợ Quỹ nghiên cứu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong một chương trình dành riêng cho miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số.

• Hỗ trợ các chủ đề nghiên cứu liên ngành với việc hình thành các nhóm liên ngành gồm các viện nghiên cứu nông nghiệp và phát triển nông thôn/các trường đại học để tiến hành các nghiên cứu cụ thể liên quan đến nông nghiệp và phát triển nông thôn có hội đồng phản biện gồm các chuyên gia quốc tế.

• Phổ biến thông tin về canh tác miền núi và quản lý nguồn lực quốc gia từ nguồn đến cấp trang trại.

Hợp phần Trung ương sẽ được kết hợp với Hợp phần tỉnh bằng việc tập trung xây dựng các công cụ nghiên cứu, cách thức phổ biến thông tin và hỗ trợ các nghiên cứu trực tiếp liên quan đến vấn đề sinh kế nông thôn của năm tỉnh thuộc Chương trình.

Cùng với những chỉ đạo của Vụ Khoa học và công nghệ- đơn vị quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn sẽ là đơn vị hợp tác chính trong Hợp phần Trung ương. Với vị trí độc lập, Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn có thể hỗ trợ cho các Vụ, Cục chuyên môn và chuyên trách thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong các nghiên cứu liên quan đến việc hoạch định chính sách của ngành và nghiên cứu tác động của nó. Bên cạnh đó, thông qua mạng lưới liên kết với các viện nhgiên cứu thuộc Bộ, Viện này cũng có thể hỗ trợ các Bộ khác trong lĩnh vực phát triển nông thôn. Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn thực sự là bộ não chiến lược cho Bộ trưởng.

Mục tiêu trước mắt của Hợp phần tỉnh là:

Cải thiện an ninh lương thực và mức sống của nông dân nghèo miền núi, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số và các hộ gia đình có chủ hộ là nữ, thông qua cải thiện công tác quản lý nguồn nhân lực và tài nguyên thiên nhiên và kỹ thuật sản xuất nông nghiệp ở miền núi”.

Để đạt được mục tiêu này, Hợp phần sẽ giải quyết những vấn đề chủ yếu dưới đây:

• Áp dụng những chiến lược rõ ràng để tiếp cận các nhóm mục tiêu và để đạt được ảnh hưởng ở cấp nông hộ

• Trực tiếp đề cập và giải quyết các vấn đề về dân tộc thiểu số và bình đẳng giới trong việc lập kế hoạch và xây dựng khung logic cho dự án

• Xây dựng năng lực

• Áp dụng các phương thức quản lý nguồn nhân lực có sự tham gia và phát huy giá trị của địa phương

• Lập kế hoạch ở cấp địa phương, bao gồm cả thôn bản

• Khuyến nông dựa trên nhu cầu

• Các nhóm nông dân sở thích

• Các khóa tập huấn và các lớp tập huấn đầu bờ cho nông dân

• Nông dân tập huấn cho nông dân

• Phương thức tiếp cận theo hệ thống canh tác

• Các phương pháp khai thác và quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững, canh tác sử dụng các đầu vào hữu cơ và nâng cao nhận thức về vấn đề môi trường.

• Nâng cao nhận thức về HIV/Aids

• An ninh lương thực

• Tiếp cận thị trường cho các nông dân nghèo và đồng bào các dân tộc thiểu số

• Sự tham gia của khu vực tư nhân

• Phản hồi lên các nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách cấp quốc gia (Hợp phần Trung ương) về: i) tác động của các chính sách và các khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn hiện nay; và ii) nhận thức của địa phương về những thiếu sót và những điểu yếu của chính sách.

Công tác thực hiện các chiến lược, các đầu ra và các hoạt động liên quan được thể hiện thành bốn tiểu hợp phần, những tiểu hợp phần này tập hợp các đầu ra có liên quan với nhau. Khung tổ chức này chính là cơ sở để điều phối hoạt động và chia sẻ kinh nghiệm giữa các tỉnh.

Tiểu hợp phần 1: Khuyến nông dựa trên nhu cầu, thông tin và đào tạo cho nông dân

Tiểu hợp phần này sẽ được triển khai với trọng tâm là các Nhóm nông dân sở thích và các Lớp học đầu bờ.

Mỗi Nhóm nông dân sở thích có từ 10-25 thành viên có chung mối quan tâm đối với các vấn đề sản xuất, chế biến, marketing trong nông nghiệp hoặc về vấn đề quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và đều có nhu cầu được tập huấn. Nông dân sẽ tự tổ chức các Nhóm nông dân sở thích theo qui tắc nhất định. Các qui tắc chủ yếu cho công tác khuyến nông và công tác tập huấn đối với Nhóm nông dân sở thích bao gồm: (i) công tác tập huấn sẽ dựa theo nhu cầu; (ii) công tác tập huấn sẽ được dựa trên cơ sở Đào tạo tiểu giảng viên, tức ở mức cao hơn; (iii) các tiểu giảng viên sẽ sử dụng phương pháp Từ Nông dân tới Nông dân để tập huấn và (iv) việc tập huấn sẽ bao gồm cả các kiến thức truyền thống có giá trị của địa phương và các kinh nghiệm tốt của nông dân.

Bên cạnh các Nhóm nông dân sở thích, ở khu vực Tây Nguyên còn có các Lớp học đầu bờ dành cho nông dân. Một lớp học như vậy có khoảng 25 người thuộc cùng một thôn bản. Các chuyên gia sẽ tập huấn cho các thành viên và trong quá trình đó các tiểu giảng viên nông dân cũng sẽ tham gia vào các nhóm.

Các vấn đề về giới cũng sẽ được lưu tâm đặc biệt. Giới sẽ là môt chủ đề chính trong các chương trình tập huấn, bao gồm các phần tập huấn dành riêng cho vấn đề này. Việc tập huấn sẽ ưu tiên đảm bảo sự tham gia của phụ nữ trong các Nhóm nông dân sở thích và các Lớp học đầu bờ. Để đảm bảo các nhu cầu của riêng phụ nữ được xem xét, dựa trên cơ sở phân chia lao động phổ biến trong các hộ nông dân, các chủ đề sản xuất phù hợp với phụ nữ sẽ được tập hợp lại (ví dụ: chăn nuôi gia súc nhỏ và làm vườn). Do đó các nhóm có thể được tổ chức kết hợp hoặc phân loại theo giới.

Tiểu hợp phần 2: Sản xuất, bảo quản, chế biến và marketing

Phương pháp tiếp cận dựa theo nhóm và hệ thống canh tác tổng hợp sẽ là nền tảng cơ bản cho các hoạt động trong tiểu hợp phần này.

Trên cơ sở có các Nhóm nông dân sở thích và các Lớp học đầu bờ đã được tập huấn kiến thức, Tiểu hợp phần sẽ hỗ trợ xây dựng và kiểm định các phương pháp sản xuất mới ở các vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau. Các phương pháp này có thể là mới đối với một số tỉnh nhưng chúng có thể đã đem lại hiệu quả tốt đối với các vùng khác của Việt Nam hoặc trong khu vực. Nếu các phương pháp đó cho thấy có thể áp dụng đối với điều kiện của địa phương thì nên phổ biến tới các vùng khác (khi đã được cải tiến) và đưa vào trong quá trình lập kế hoạch.

Trong công tác khuyến nông và xây dựng các hệ thống canh tác cải tiến sẽ áp dụng phương pháp coi nông trang như là một đơn vị tổng hợp và là đầu mối của hệ thống sản xuất nông nghiệp chứ không chỉ đơn thuần xem xét một loại cây trồng hay vật nuôi. Điều đó nghĩa là cần nhìn nhận đầy đủ các hoạt động canh tác hiện nay, cách thức tương tác giữa các hoạt động đó và khả năng hay cách thức để các phương pháp, giống vật nuôi và cây trồng mới gây ảnh hưởng tới hệ thống đó. Trong đó cần lưu ý cả yếu tố sản xuất phải căn cứ theo lực lượng lao động trong từng mùa vụ.

Tiểu hợp phần 3: Lập kế hoạch địa phương và xây dựng năng lực

Công tác lập kế hoạch cấp thôn bản tạo định hướng chính cho hoạt động của Tiểu hợp phần này.

Ở cấp tỉnh, huyện, xã và thôn bản, kinh nghiệm và năng lực trong công tác lập kế hoạch từ dưới lên có sự tham gia cũng như cung cấp các dịch vụ theo nhu cầu còn rất hạn chế. Do vậy, hoạt động xây dựng năng lực ở các cấp tỉnh, huyện và xã sẽ bao gồm các phương pháp có sự tham gia, đánh giá nhu cầu tập huấn, các phương pháp phát huy thế mạnh địa phương, lập kế hoạch từ dưới lên và cung cấp các dịch vụ dựa theo nhu cầu cũng như kiến thức về hiệu quả của các phương pháp và công cụ. Các cán bộ sẽ được tập huấn để đáp ứng đúng những nhu cầu của nông dân nghèo và các nhóm sở thích về các dịch vụ đã được tập hợp trong các kế hoạch phát triển xã và thôn bản.

Trong giai đoạn thực hiện chính, công tác lập kế hoạch cấp thôn bản là trọng tâm của chương trình. Quá trình lập kế hoạch sẽ được bắt đầu ở cấp thôn bản hoặc ngay ở các nhóm sở thích, sau đó sẽ được tập hợp trong Kế hoạch phát triển thôn bản, Kế hoạch phát triển của xã và của huyện, và cuối cùng là trong Kế hoạch phát triển của tỉnh. Do đó, việc lập kế hoạch thôn bản phải được lên lịch sao cho phù hợp và đủ thời gian để kịp tổng hợp vào các kế hoạch của xã và của tỉnh.

Quỹ Phát triển thôn bản sẽ được thành lập để cấp vốn cho các hoạt động sau tập huấn ở cấp thôn bản. Để phù hợp với thực tế, mỗi thôn bản sẽ có một tài khoản của quỹ này ở cấp xã và do thôn/bản cùng xã quản lý. Cần xác định rõ Quỹ Phát triển thôn bản là một phần bổ sung của Chương trình cho các hỗ trợ hiện có của các thôn bản tham gia như các nguồn của chính phủ và do vậy không làm giảm các hỗ trợ sẵn có đó.

Tiểu hợp phần 4: Hỗ trợ cho công tác giao đất giao rừng (ở Tây Nguyên)

Tiểu hợp phần này tập trung vào công tác giao đất có sự tham gia.

Ở Cao nguyên Trung bộ, chậm giao đất giao rừng là trở ngại chính hạn chế việc phát huy tiềm năng sản xuất của cộng đồng địa phương. Quy trình phân loại và giao đất giao rừng diễn ra chậm hơn so với dự kiến do một số nguyên nhân về chuyên môn và xã hội.

Hợp phần tỉnh sẽ hỗ trợ thúc đẩy quá trình giao đất thông qua hỗ trợ cho đào tạo, chia sẻ thông tin cũng như cung cấp các hỗ trợ về chuyên môn. Hợp phần sẽ tập trung phổ biến các quy trình và thủ tục giao đất có sự tham gia tới các nhóm dân tộc.

Để tránh hiểu sai lệch, công tác giao đất giao rừng phải được thực hiện thông qua quá trình có sự tham gia trong đó i) dân cư địa phương và các cơ quan, đơn vị liên quan ở địa phương đều được tham gia, và ii) quyền và nghĩa vụ cũng như các phương án, hình thức sở hữu đất như sở hữu của xã, sở hữu theo nhóm v.v. được thông tin và giải thích rõ.

Các giai đoạn thực hiện

Chương trình sẽ được thực hiện theo bốn giai đoạn: 1) giai đoạn khởi động kéo dài 6 tháng; 2) giai đoạn thực hiện ban đầu kéo dài một năm trước khi hoàn chỉnh và triển khai các quy trình lập kế hoạch và cấp vốn; 3) giai đoạn thực hiện chính, và cuối cùng 4) giai đoạn rút lui.

Trong giai đoạn khởi động (mùa thu 2007) sẽ tiến hành lên kế hoạch hoạt động, xây dựng các kế hoạch thực hiện chi tiết, hoàn thành các thủ tục để triển khai chương trình trên diện rộng, xác định các đơn vị thực hiện đào tạo và tập huấn cho các nhóm nòng cốt. Những công việc này sẽ do các tư vấn của chương trình thực hiện và để thuận tiện, Đại sứ quán sẽ tuyển lựa các tư vấn này trên cơ sở được các ban chỉ đạo thông qua. Cấp tỉnh là cấp thực hiện chính và do vậy các quyết định sẽ được đưa ra tại cấp này. Sẽ tiến hành tổ chức các ban điều phối cấp huyện và phân công trách nhiệm giữa cấp huyện và tỉnh. Đối với Hợp phần Trung ương sẽ tiến hành lựa chọn các viện nghiên cứu tham gia Chương trình.

Trong giai đoạn thực hiện ban đầu (bắt đầu từ tháng 1 năm 2008), chương trình bắt đầu triển khai các hoạt động dựa trên kế hoạch và ngân sách do các Ban chỉ đạo đã thông qua. Ở các tỉnh, giai đoạn này sẽ dành cho hoạt động tập huấn chuyên sâu đối với tiểu giảng viên nông dân.

Cũng trong giai đoạn này sẽ xác định chính xác nhu cầu tập huấn căn cứ vào yêu cầu của các thôn bản và các nhóm cũng như những cơ hội thực hiện tập huấn; ngoài ra xác định nhu cầu xây dựng năng lực cho các đơn vị và tổ chức tham gia vào chương trình.

Tiếp theo hoạt động trên, đến tháng 6 năm 2008 sẽ là giai đoạn tập huấn cho nông dân. Các hoạt động sẽ được bắt đầu thực hiện ở những xã được chọn căn cứ theo các tiêu chí chủ yếu như tỷ lệ nghèo đói, tỷ lệ dân tộc thiểu số và mức độ sẵn sàng tham gia vào chương trình. Một phần các hoạt động sẽ được thực hiện trên cơ sở những nhu cầu đã được xác định, ngoài ra sẽ là các hoạt động phục vụ công tác lập kế hoạch cho thôn bản (bên cạnh những hoạt động theo nhu cầu của thôn bản) bao gồm hoàn chỉnh các quy trình lập kế hoạch từ cấp thôn bản, cấp xã cho đến cấp huyện. Một trọng tâm khác là xác định, lựa chọn và tập huấn cho các đơn vị cung cấp dịch vụ. Các thành phần quan trọng trong các hoạt động tại giai đoạn này sẽ là Ban điều phối cấp huyện, đại diện của các cơ quan hành chính tham gia chương trình và các đơn vị cung cấp dịch vụ như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Ban Dân tộc, các cơ sở đào tạo và các đơn vị có thể sẽ tham gia khác.

Thông tin về chương trình, tầm nhìn và các mục tiêu của chương trình sẽ được giới thiệu và làm rõ tới các nhóm/các thôn bản. Một hướng đi nên làm là thông qua các trưởng thôn để đảm bảo tôn trọng các tập quán và hệ thống của địa phương. Các huyện sẽ phải tiến hành một cuộc điều tra rất cơ bản về kinh tế xã hội trong đó thu thập các thông tin cơ bản về sinh kế, phong tục, dân tộc v.v. để hỗ trợ cho việc lựa chọn phương pháp tiếp cận phù hợp sau này.

Trong giai đoạn thực hiện chính, việc lập kế hoạch thôn bản chính là một phương tiện đặc biệt quan trọng để thực hiện chương trình. Trong một số trường hợp, thẩm quyền quyết định sẽ được chuyển giao từ cấp huyện xuống cho cấp xã.

Tương ứng với sự gia tăng số lượng các thôn bản tham gia vào việc lập kế hoạch phát triển thôn bản là quá trình tăng cường năng lực của chính quyền xã và huyện hỗ trợ cho hoạt động này.

Đối với việc lập kế hoạch thôn bản, để có được một cái nhìn khái quát về tất cả “tài sản” và từ đó nhận ra các cơ hội dành cho những người hưởng lợi từ chương trình, cần có một đánh giá có sự tham gia về các nguồn lực nhằm xác định các nguồn lực sẵn có trong nhóm/thôn bản (vật nuôi, diện tích đất và diện tích đất sử dụng, cơ sở hạ tầng .v.v..). Đây phải là nội dung chủ đạo của quá trình lập kế hoạch thôn bản và cũng có thể xem là một nội dung mở đầu trong cho nông dân về kỹ năng lập kế hoạch.

Việc xây dựng năng lực cho các cán bộ khuyến nông, các đơn vị cung cấp dịch vụ tư nhân và các tổ chức đoàn thể cũng sẽ hỗ trợ cho các kế hoạch thôn bản.

Do chưa có được các điều kiện cho hình thức đồng tài trợ (theo Phương pháp tiếp cận toàn ngành trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn), sự hợp tác và phối hợp với các nhà tài trợ có liên quan sẽ được thực hiện trên cơ sở song phương có nhấn mạnh tới việc kết hợp theo các quy trình và định mức tài chính của Việt Nam. Chương trình sẽ dõi theo chặt chẽ việc áp dụng Phương pháp tiếp cận toàn ngành trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam bởi Phương pháp này sẽ mở ra cơ hội cho tất cả những nhà tài trợ lớn của ngành hài hòa hóa những nỗ lực và các phương pháp tiếp cận.


Trích: Văn kiện chương trình ARD SPS 2007 - 2012

Tin khác