Kim Ngọc và số phận của “khoán chui”

13/12/2007

Thời kỳ Đổi Mới ở nước ta được mở đầu bằng những chính sách mang tính đột phá trong nông nghiệp, nông thôn. Sự hình thành của những chính sách này là một quá trình lịch sử, gắn liền với vai trò của quần chúng nhân dân mọi miền đất nước nói chung và vai trò của những cá nhân cụ thể. Bắt đầu từ tháng 12/2006, chuyên mục "Nhân vật" sẽ lần lượt giới thiệu những cá nhân đã được thực tế lịch sử ghi nhận là có những đóng góp nhất định trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Các thông tin, tư liệu được tổng hợp, tham khảo từ nhiều nguồn đã được công bố chính thức. Nhân vật đầu tiên mà chúng tôi muốn giới thiệu là ông Kim Ngọc nguyên Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc với sự kiện "khoán hộ" trong những năm 60 của thế kỷ trước.

Con đường vào nhà ông Kim Ngọc
Khi chúng tôi hỏi một anh xe ôm còn khá trẻ đường vào nhà ông Kim Ngọc anh ta sẵn sàng đưa đi. Hoá ra ở thị xã này, hầu như ai cũng biết gia đình ông Kim Ngọc. Ông nổi tiếng không phải vì đã từng có chức quyền mà nổi tiếng vì dám nghĩ dám làm, dám đột phá để đưa cụm từ “khoán hộ” vào trong chủ trương của Đảng bộ Vĩnh Phú lúc đó. Trong khi khoán hộ bị coi là đi ngược lại Chủ nghĩa xã hội... Một cuộc đấu tranh cam go giữa cái mới và cái cũ suốt hơn 20 năm.

Kỳ 1: Con đường “khoán hộ”

Từ đường Kim Ngọc vào đến nhà của ông khoảng gần một cây số. Khá vòng vèo. Một vài đoạn chúng tôi đi qua những thửa ruộng. Lúa lên xanh tốt. Một hàng cây xanh chạy thẳng vào cửa nhà ông Kim Ngọc. Một ngôi nhà chỉ có vườn là rộng còn căn nhà nom vẫn rất tuềnh toàng. Thật may, người mở cửa cho chúng tôi là bà Lê Thị Liên, vợ của ông Kim Ngọc. Vẫn là thứ nước vối quen thuộc mà thủa sinh thời, ông Ngọc vẫn thích dùng, được đưa ra mời chúng tôi. Bà Liên năm nay đã 87 tuổi nhưng còn rất khoẻ mạnh. Ông Kim Ngọc sinh năm 1917 hơn bà 4 tuổi...

Tôi đã từng hỏi ông Trần Đức Lương về khoán hộ

Bà Liên gần như nhớ không sót một chi tiết nào về những kỷ niệm bao năm gắn bó giữa bà với ông Kim Ngọc (câu chuyện này chúng tôi sẽ kể lại vào những số báo sau). Biết chúng tôi muốn tìm hiểu về ông, tìm hiểu về “khoán chui”, bà liền kể: Chuyện dài lắm. Cũng có nhiều báo về đây tìm hiểu, nhưng các báo đăng thì không nhiều.

Năm ngoái có ông nhà báo ở một tờ báo lớn trên Hà Nội về tìm hiểu mấy ngày liền, gặp được nhiều người còn sống và đã từng cùng làm “khoán chui” với ông Ngọc để viết bài. Nhưng sau đó mấy tháng ông ấy lại trở lên đây cười buồn rồi nói: “Tôi đã viết, gửi cho toà soạn nhưng đọc xong họ nói tế nhị lắm chưa thể đăng được”.

Cách đây 3 năm, vào dịp Tết (năm 2003), Chủ tịch nước Trần Đức Lương có về Vĩnh Yên, đến thăm gia đình tôi. Ông ấy đến tặng cả quà, ngồi ngay trên cái ghế này này. Tôi hỏi ông ấy: “Khoán hộ của Vĩnh Phú khác với khoán 10 như thế nào?” Ông ấy cười rồi không trả lời. Tôi cũng hiểu ông ấy rất khó trả lời vì còn nhiều cái tế nhị quá. Hồi đó người ủng hộ khoán hộ cũng có nhiều, nhưng người chống khoán hộ cũng lắm. Mặc dù có nghị quyết của đảng bộ hẳn hoi nhưng có dám làm công khai đâu chính vì vậy người ta mới gọi là khoán chui.

Câu chuyện mà đến cả trước khi mất, ông Kim Ngọc vẫn luôn đau đáu: Đó là khoán hộ mà ông thực hiện về sau này có được công nhận không và sự ảnh hưởng của khoán hộ đến sự hưng vong của đất nước như thế nào?

Cái giá của 20 năm

Xin tạm ngắt đoạn giữa cuộc trò chuyện với bà Lê Thị Liên, vợ của ông Kim Ngọc để quay lại với một người mà với tôi luôn đặc biệt kính trọng và ngưỡng mộ: Nhà báo Thái Duy. Ông nguyên là phóng viên báo Đại Đoàn Kết, năm nay đã 82 tuổi, nhưng vẫn đau đáu với nỗi niềm: Cần phải phong tặng danh hiệu anh hùng cho ông Kim Ngọc.

Từ năm 93, khi đổi mới đã khẳng định bằng những thành tựu của đất nước, ông đã bắt đầu loạt bài đăng trên một số báo về ông Kim Ngọc. Hồi đó dù “khoán chui” của ông Kim Ngọc đã được công nhận và thể chế hoá bằng Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (sau gọi là khoán 10) nhưng những bài viết của nhà báo Thái Duy về ông Kim Ngọc vẫn gây chú ý của dư luận.

Tôi xin trích một đoạn được đăng trên báo Đại Đoàn Kết (số ra ngày 19/11/1993) dưới đầu đề “Ông Kim Ngọc và khoán hộ”: “Đầu năm 1991, nhân thành tích xuất sắc trong sản xuất nông nghiệp, Hội Nông dân VN kỷ niệm 61 năm thành lập đã tổ chức trao huân chương cho một số cán bộ hoạt động lâu năm trên mặt trận nông nghiệp, hầu hết đã về hưu. Xem danh sách không thấy ông Kim Ngọc, người đã chấp nhận mọi thiệt thòi để bảo vệ đến cùng một cơ chế quản lý ngày nay đang mang lại cơm no, áo ấm cho toàn dân, nhiều người rất ngạc nhiên. Đông đảo nông dân và và cán bộ trong cả nước biết rõ công lao của ông Kim Ngọc, tên tuổi ông từng gắn liền với khoán hộ, khoán 10 với những kỳ tích trong sản xuất nông nghiệp mấy năm qua...”.

Trước khi đi Vĩnh Yên, chúng tôi tìm gặp nhà báo Thái Duy. Ông chính là người đã viết tác phẩm “Sống như Anh” kể về cuộc đời của Liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi với cái tên Trần Đình Vân. Năm nay đã 82 tuổi nhưng ông vẫn còn rất khoẻ, viết khoẻ, giọng nói sang sảng. Khi chúng tôi hỏi ông câu hỏi: Vì sao suốt bao năm qua ông vẫn đau đáu với nỗi niềm của ông Kim Ngọc, nhà báo Thái Duy trả lời ngay: Công lao của ông Ngọc lớn lắm. Không có ông ấy dám làm hồi ấy thì đất nước có khi “tiêu” rồi.

Sau giải phóng 1975, đất nước tiến hành triệt để con đường Xã hội chủ nghĩa. Miền Bắc thì thành lập hơn 600 hợp tác xã (mà chúng ta quen gọi là hơn 600 pháo đài nông nghiệp). Miền Nam thì tiến hành xoá bỏ tư bản, tư doanh, để cải tạo thành xã hội chủ nghĩa. Của cải, tài sản là của chung. Và chính sự “chung” này (mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội theo đuổi) mà chúng ta sai lầm.

Bà Lê Thị Liên - vợ ông Kim Ngọc
Những sai lầm phải trả giá rất đắt, mà tại Đại hội VI của Đảng đã chỉ ra. Những năm 80, đất nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Một quốc gia rừng vàng biển bạc, với 2 vựa lúa phì nhiêu là châu thổ sông Hồng và Đồng bằng Sông Cửu Long mà hơn 60 triệu dân lúc đó rơi vào nạn đói. Với nông nghiệp, trên cả nước lúc đó chỉ áp dụng mỗi một mô hình là khoán việc. Đơn vị sản xuất là tổ đội sản xuất. Khoán việc không quy trách nhiệm cho ai, xã viên không hề thấy quyền lợi mà mình sẽ được hưởng trên cánh đồng chung. Cứ có tiếng kẻng thì xã viên đủng đỉnh ra đồng, làm cho qua chuyện, rồi có kẻng lại về.

Công điểm là cái cùm trên lưng xã viên. Mọi công sức của xã viên, từ cấy hái, chăm bón đến họp hành đều tính thành công điểm mà người ghi điểm là cán bộ thôn, xã. Cuối mỗi vụ đều dựa vào công điểm để chia hoa lợi. Đây chính là điểm sơ hở đẻ ra rất nhiều sâu mọt, quan tham ngay từ cơ sở. Kẻ ghi công điểm thì không phải lao động và có quyền ban phát công điểm cho nông dân. Còn nông dân thì một nắng hai sương nhưng chẳng được bù đắp gì vì mọi thứ đều là của chung và rơi vào tình trạng “cha chung không ai khóc”. Chính vì vậy mà nông nghiệp lụn bại.

Năm 1986, vụ giáp hạt tháng 3, hàng chục tỉnh ở miền Bắc và miền Trung lâm vào nạn đói trầm trọng. Nhìn ra tình hình thế giới lúc đó thì chính các nước xã hội chủ nghĩa cũng đang rơi vào khủng hoảng. Tình hình trở nên cực kỳ nghiêm trọng và nhiều người lúc đó nhận định: Đất nước đang đứng trước những thách thức chưa từng thấy và số phận như ngàn cân treo sợi tóc. Ông Thái Duy nhớ lại: Lúc đó vẫn còn rất một số người bảo thủ cố giữ quan điểm cũ cho rằng “khoán hộ là mất lập trường. Thà đói chứ không thể làm khoán hộ”.

Nếu lúc đó Đảng không tự tìm ra cho mình một con đường đi thì chắc chắn tình hình đất nước sẽ đi vào ngõ cụt. Từ sự bức bách đó mới có đổi mới và khoán chui lúc đó mới được công nhận bằng Nghị quyết 10. Đó là vào giữa năm 1988. Nếu tính từ khi ông Kim Ngọc áp dụng khoán hộ ở Vĩnh Phú, thời gian trôi qua đã 20 năm. Nếu ngay từ lúc ông Kim Ngọc áp dụng mô hình khoán hộ vào năm 1968 và được áp dụng trên toàn quốc thì tình hình đất nước đã khác đi rất nhiều rồi.

Biết chúng tôi đi Vĩnh Yên, ông Thái Duy có thêm chỉ dẫn, hiện còn nhiều người đã từng làm khoán hộ với ông Kim Ngọc, họ còn sống cả, nếu muốn tìm hiểu thêm thì nên tìm đến họ.

Bà Lê Thị Liên, trong câu chuyện với chúng tôi cũng cho biết như thế. Như ông Nguyễn Thành Tô, nhiều năm liền là thư ký cho các Bí thư tỉnh uỷ, ông Hoàng Quy (lúc ông Kim Ngọc là Bí thư thì ông Hoàng Quy là Phó Bí thư), ông Lê Huy Ngọ (nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT), khi đó ông Ngọ là Bí thư một huyện áp dụng khoán chui.

Bà đưa chúng tôi ra vườn, nơi còn đọng lại rất nhiều kỷ niệm về ông Kim Ngọc. Những cây mít, cây nhãn ông Ngọc tự tay trồng bây giờ đã lên xanh tốt, trở thành những cây cổ thụ. Ngay cả bộ bàn ghế gụ nâu bóng vẫn còn nguyên ở vị trí mà lúc còn sống ông Ngọc vẫn ngồi. Ông Kim Ngọc mất ngày 26/5/1979 cách đây 27 năm. Ông nghỉ hưu rời bỏ chức vụ Bí thư Tỉnh uỷ vào năm 1978 và mất chỉ một năm sau đó. Bà Liên cho biết: Ngay cả sau khi nghỉ và trước khi mất, trong ông vẫn đau đáu một nỗi niềm: Khoán hộ của ông là một cách làm đúng, thật sự cách mạng.

Khoán hộ là gì?

Vậy cái khoán hộ mà ông Kim Ngọc áp dụng rồi phải làm chui trong suốt 20 năm là gì mà gây nhiều tranh cãi đến thế? Tại Hội nghị TW lần thứ 6 (Đaị hội IV) họp tháng 9.1979 có đưa ra nghị quyết 6, điều chỉnh lại một số chủ trương và giải pháp mà trước năm 1979 vẫn còn là những điều cấm kỵ, trong đó có khoán chui.

Vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất, gay go nhất vẫn là: ủng hộ hay phủ nhận khoán chui?

Con đường “khoán chui”, mà cũng là con đường để đất nước thoát khỏi khủng hoảng đói nghèo, thật may lại được một trong những vị lãnh đạo cao cấp của Đảng và Chính phủ lúc đó ủng hộ hết mình. Đó là ông Võ Chí Công, lúc đó trên cương vị là Uỷ viên Bộ Chính Trị, Phó Thủ tướng phụ trách nông nghiệp (sau này ông Võ Chí Công là Chủ tịch nước). Trong hồi ký “Trên những chặng đường cách mạng” của ông Võ Chí Công có đoạn: “Tôi viết thưcho đồng chí Hoàng Quy (Bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú, người lên thay ông Kim Ngọc đã thôi chức), đề nghị làm thí điểm đến người lao động ở xã Thô Thuỵ, Vĩnh Lạc, huyện Vĩnh Tường. Đồng chí Quy đồng ý. Đến giữa vụ đông xuân thấy kết quả ruộng khoán xanh tốt hơn nhiều, khác hẳn hợp tác xã chưa khoán. Anh em nói đây là làm “chui”, tôi trả lời lĩnh vực này là trách nhiệm của tôi, tôi không làm trái đường lối, chủ trương của Đảng, hơn nữa đây mới là thí điểm”.

Khoán hộ là cách làm khoán trực tiếp đến mỗi người lao động. Giao ruộng cho người lao động. Hợp tác xã chỉ cung cấp giống, kỹ thuật, phân bón, thuốc trừ sâu và đến vụ thu hoạch thì người lao động chia lại một phần lúa cho hợp tác xã từ năng suất lúa mà họ thu hoạch được. Hạt lúa đã gắn với công sức và quyền lợi của người nông dân. Nếu họ chăm chỉ thì lúa sẽ tốt và hứa hẹn vụ mùa đó họ sẽ thu hoạch được nhiều cho mình hơn. Một chân lý đơn giản như vậy nhưng đã phải trải qua biết bao sóng gió...

(còn tiếp)


Tin khác