Thực trạng các doanh nghiệp ngành mây tre đan và các giải pháp thúc đẩy phát triển

25/08/2008

Phát triển ngành nghề truyền thống tại các vùng nông thôn là một trong những giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả nguồn lực sẵn có tại các địa phương về nguyên liệu, lao động, kinh nghiệm, v.v… Trong các làng nghề khác nhau tại Việt Nam, làng nghề mây tre đan, chiếm tới 24% tổng số làng nghề tiểu thủ công nghiệp trong cả nước.

(Bài tham luận tại Hội thảo về "Cơ hội đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn trong bối cảnh mới”, Hà Nội, ngày 19 tháng 8 năm 2008)

1. Đặt vấn đề

Phát triển ngành nghề truyền thống tại các vùng nông thôn là một trong những giải pháp nhằm sử dụng hiệu quả nguồn lực sẵn có tại các địa phương về nguyên liệu, lao động, kinh nghiệm, v.v… Trong các làng nghề khác nhau tại Việt Nam, làng nghề mây tre đan, chiếm tới 24% tổng số làng nghề tiểu thủ công nghiệp trong cả nước. Vai trò quan trọng đầu tiên của các doanh nghiệp này là thu hút lao động nông thôn và tạo thu nhập cho cư dân. Ngành mây tre đan hoạt động theo cơ chế gia công, sử dụng lao động thời vụ là chính lên có thể huy động một lúc nhiều lao động cho những đơn hàng nhất định. Mặt khác theo các chuyên gia trong ngành cho biết thì việc tạo một chỗ làm trong ngành mây tre đan không tốn kém bằng các ngành khác. Chi phí đào tạo thường nhỏ và tốn ít thời gian. Với những làng nghề với đội ngũ lao động sẵn có, mỗi khi có những mẫu hàng mới người cán bộ kỹ thuật có thể làm mẫu hay tập huấn vài hôm thậm chí chỉ một buổi người lao động có thể làm được rồi. Trong cơ cấu lao động làm việc tại các doanh nghiệp khảo sát thời gian qua cho thấy có tới 71.39% số lao động được huy động tại chỗ (tại làng nghề); 24.11% từ các xã lân cận và chỉ có 4.5% từ các tỉnh huyện khác. Nhiều doanh nghiệp không chỉ đóng góp với địa phương về mặt ngân sách mà còn mang lại thu nhập có nhiều người trong khu vực cũng như góp phần đào tạo nghề mới thúc đẩy quá trình chuyển dịch lao động nông nghiệp nói riêng và kinh tế xã hội nói chung. Đối với các vùng nông thôn hạn chế về các nguồn thu nhập thì việc tạo công ăn việc làm và tăng thêm thu nhập của người dân là hết sức quan trọng. Hơn nữa các doanh nghiệp cũng là nguồn thu không nhỏ đối với ngân sách địa phương. Tổng hợp số liệu điều tra cho thấy mặc dù mới hoạt động ở qui mô hộ nhưng các cơ sở chế biến gia đình đã đóng mức thuế khoảng 7 triệu đồng cho ngân sách địa phương. Ngoài ra, các cơ sở kinh doanh còn đóng góp giúp đỡ lớn trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn (đường giao thông, trạm y tế, trường học…).

Mây tre đan là sản phẩm quan trọng trong nhóm lâm sản ngoài gỗ ở nước ta và đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm gần đây. Trong thời kỳ 1999-2005 giá trị kim ngạch xuất khẩu lâm sản tăng hơn 2,3 lần, trong khi đó con số này lớn nhiều đối với sản phẩm mây tre đan: tăng gần 4 lần, đưa tổng giá trị xuất khẩu của nhóm hàng này từ 48,21 triệu USD năm 1999 lên hơn 211 triệu USD năm 2007. Con số này của 6 tháng đầu năm 2008 là 110,9 triệu USD Mây tre đan cũng chiếm tỉ lệ lớn và có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây: từ 61,60% năm 1999 lên 97,79% năm 2005. Theo nhiều nghiên cứu cho thấy nếu tính cả giá trị sản phẩm tiêu thụ nội địa thì sản lượng ngành mây tre đan có thể lên tới 250 triệu USD (MPDF, 2005). Kết quả khảo sát tại các tỉnh cũng cho thấy vai trò quan trọng của thủ công mỹ nghệ trong quá trình phát triển ngành nghề phi nông nghiệp thông qua tỉ lệ trong tổng sản lượng tiểu thủ công nghiệp: Hà Tây – 47%; vùng Tây Bắc – 17% và Đồng bằng sông Cửu Long – 10%.

Trong những năm gần đây sản phẩm mây tre đan của Việt Nam đã thâm nhập được nhiều thị trường khó tính trên thế giới như Mỹ, EU và Nhật Bản. Nếu như trong những năm 80 thị trường chính của sản phẩm này là Liên Xô và các nước Đông Âu cũ (thị trường truyền thống, thị trường khu vực I) thì nay khách hàng của Việt Nam là các nước có nền kinh tế phát triển. Hiện tại các sản phẩm mây tre đan của ta đã có mặt tại hơn 90 quốc gia và khu vực và có xu hướng ngày càng mở rộng. Các thị trường xuất khẩu chính là Nhật Bản, Đức, Đài Loan, Pháp, Mỹ… Thị trường Nhật Bản và Đài Loan chiến thị phần cao và ổn định: từ 13 triệu USD năm 2000 lên 27,6 triệu USD năm 2005. Thị trường Mỹ là tương đối mới nhưng có mức tăng trưởng rất nhanh và là thị trường tiềm năng. Giá trị kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ năm 2000 chỉ ở mức thấp chưa đến 2 triệu USD thì đến năm 2005 đã lên tới hơn 22 triệu USD, tăng đến hơn 10 lần vươn lên thứ hai sau thị trường Nhật Bản. Một số thị trường chiếm thị phần lớn như Đức, Pháp, Tây Ban Nha vẫn duy trì ở thứ hạng cao, trong nhóm 10 thị trường lớn của mây tre đan Việt Nam.

!!

2. Một số đặc điểm phát triển ngành mây tre đan ở nước ta

Doanh nghiệp ngành hàng mây tre đan có vai trò quan trọng là những tác nhân chính trong sự phát triển của các làng nghề ngành hàng này.

Tuy nhiên, hiên tại trong các số liệu thống kê chính thức của Nhà nước cũng chưa có số liệu riêng về các doanh nghiệp trong ngành mây tre đan mà được thống kê vào nhóm các doanh nghiệp chế biến lâm sản (gỗ, tre, nứa, lá, rơm rạ…). Theo số liệu thống kê số lượng doanh nghiệp này tăng lên liên tục trong những năm gần đây. Nếu như năm 2000 cả nước chỉ có 742 doanh nghiệp hoạt động trong thời gian này thì con số này đã lên tới 2032 vào năm 2006. Một điều đáng chú ý là giá trị doanh thu thuần bình quân cũng tăng lên đáng kể từ 6 tỷ đồng năm 2000 lên 7,8 tỷ đồng năm 2005. Đối với giá trị tài sản cố định thì tăng gấp 1,5 lần: 1,9 tỷ đồng năm 2000 lên 2,5-3 tỷ đồng trong 2 năm gần đây.

Số lao động thường xuyên trong các doanh nghiệp này cũng tăng gần gấp 2 lần từ hơn 62 ngàn người năm 2000 lên gần 114 ngàn người năm 2006. Tuy nhiên, nếu xét về tỉ trọng trong tổng số doanh nghiệp trong cả nước thì ngành mây tre đan còn quá nhỏ bé so với các ngành khác như xây dựng, thương nghiệp: chiếm chưa đến 2% trong khi con số này đối với các doanh nghiệp xây dựng là gần 14%; các doanh nghiệp thương nghiệp là gần 42%, công nghiệp chế biến (trong đó có mây tre đan) chiếm hơn 21%.... Nếu phân theo qui mô lao động, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến mây tre đan chủ yếu có qui mô không lớn. Hầu như không có doanh nghiệp nào có qui mô 5000 người trở lên. Số doanh nghiệp qui mô trên 300 lao động chỉ ở mức 1-2%. Phổ biến các doanh nghiệp có qui mô dưới 200 lao động, trong đó qui mô dưới 50 lao động chiếm hơn 44% số doanh nghiệp hiện có. Con số này là 20,7% đối với doanh nghiệp có qui mô từ 50-199 lao động. Tuy nhiên với đặc thù sử dụng lao động nông thôn và lao động nông nhàn tại các vùng nên lực lượng lao động thời vụ làm việc trong ngành mây tre đan còn lớn hơn nhiều. Xét về vốn, các doanh nghiệp nước ta còn quá khiêm tốn. Phần lớn các doanh nghiệp (gần ¾ số doanh nghiệp) có số vốn dưới 5 tỉ đồng. Số doanh nghiệp có vốn lơn hơn 50 tỷ đồng mới chỉ ở mức dưới 5% số doanh nghiệp hiện tại.

Xét về tổng quan phát triển ngành hàng mây tre đan của Việt Nam trong những năm qua có thể khái quát ở một mô hình đặc trưng mang tính tổ chức không gian rõ nét. Trước hết, đó là sự tách biệt về không gian giữa các khâu sản xuất nguyên liệu, sản xuất sản phẩm và thương mại sản phẩm.

Nguồn cung nguyên liệu như mây tre được xuất phát từ những địa bàn có rừng như miền núi phía Bắc (Hòa Bình, Sơn La…); Miền Trung (Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam…) hay Tây nguyên (Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng). Địa bàn sản xuất và chế biến các sản phẩm mây tre là nơi dồi dào về lao động, có nhiều làng nghề và nghệ nhân có tay nghề cao như Đồng bằng sông Hồng (Hà Tây, Hà Nội, Hà Nam, Thái Bình…); Đông Nam Bộ (Đồng Nai, Bình Dương) hay Duyên hải miền Trung (Quảng Nam, Đà Nẵng…). Trung tâm tiêu thụ sản phẩm lại là các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng… nơi có những cơ sở hạ tầng thương mại tiên tiến cho việc xuất khẩu, quảng bá sản phẩm, v.v…

Chế biến sản phẩm mây tre đan hiện tại được tiến hành chủ yếu tại các trung tâm làng nghề lớn của cả nước như Hà Tây (chiếm tới ½ số làng nghề mây tre đan của cả nước), Hà Nam, Thái Bình, Nghệ An, Quảng Nam, v.v…Tại các làng nghề thường có những doanh nghiệp vệ tinh điều phối các hoạt động gia công sản phẩm thô và hoàn thiện sản phẩm cuối cùng phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Hiện tại các doanh nghiệp trong ngành có thể sản xuất nhiều chủng loại sản phẩm: từ các sản phẩm thô sơ như các vật dụng gia đình, cung cụ sản xuất (thúng, mủng, rổ rá…) cho tới những sản phẩm mỹ nghệ tinh sảo như hàng thủ công mỹ nghệ (bình hoa, tranh tre…) và thậm chí cả những ngôi nhà bằng tre. Tùy thuộc và sản phẩm của từng doanh nghiệp mà có những công nghệ khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn các sản phẩm còn mang tính truyền thống cao. Công nghệ chủ yếu là thủ công nhiều. Chỉ có một số khâu đòi hỏi cơ giới hóa như chẻ tre, chẻ mây, sơn tĩnh điện hay sấy lưu huỳnh chống mốc, v.v…Với đặc thù là ngành sử dụng nhiều lao động thủ công nên đầu tư công nghệ và kỹ thuật tại các cơ sở chế biến rất hạn chế và cũng khác nhau phụ thuộc vào qui mô của đơn vị: qui mô hộ gia đình hay là công ty lớn. Tại qui mô hộ gia đình, thiết bị phổ biến nhất là một lò sử lý chống mốc đối với sản phẩm và một số máy phun sơn. Đối với các công ty có sản lượng chế biến hàng năm lớn thường đầu tư máy móc thiết bị tạo khuôn mẫu (dây chuyền phun sơn tĩnh điện, xưởng cơ khí tạo khung, v.v...).

Tổ chức sản xuất các mặt hàng mây tre đan cũng khá đa dạng tuỳ theo điều kiện của từng chủ thể nhận đặt hàng gia công và có thể được phân loại như sau:

· Các chủ cơ sở, người lao động nhận đặt hàng gia công nhưng không chịu trách nhiệm về khâu cung ứng nguyên liệu: Đối với hình thức sản xuất này, các chủ thu gom sản phẩm chịu trách nhiệm cung ứng nguyên liệu cho người sản xuất, tạm ứng một phần tiền công và thu gom toàn bộ sản phẩm đạt tiêu chuẩn kỹ thuật, mỹ thuật và đúng thời gian hợp đồng.

· Các chủ cơ sở, người lao động nhận đặt hàng gia công nhưng chịu trách nhiệm khai thác nguyên liệu: Đối với hình thức này, chủ DN đặt hàng gia công sẽ tạm ứng tiền cho các cơ sở, người lao động để họ tự mua nguyên, vật liệu về sản xuất các sản phẩm theo mẫu mã qui định. DN thu mua chịu trách nhiệm thu mua toàn bộ sản phẩm đạt tiêu chuẩn kỹ thuật, mỹ thuật và đúng thời gian hợp đồng.

· Các chủ cơ sở, người lao động tự tổ chức sản xuất các mặt hàng mây tre đan để bán cho người thu gom sản phẩm. Trong trường hợp này, người sản xuất chỉ cần có thông tin và mẫu mã mặt hàng là họ tự đầu tư mua nguyên liệu, tổ chức sản xuất và bán sản phẩm cho các cơ sở thu gom. Thông thường, các sản phẩm tiêu dùng nội địa được sản xuất theo phương thức này.

Như vậy người có tính quyết định trong chuỗi tổ chức ngành hàng mây tre đan là các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu. Họ quyết định sản xuất cái gì (đặt mẫu mã) và bán cho ai (ký hợp đồng tiêu thụ với các đối tác nước ngoài trước khi triển khai sản xuất tại các trung tâm làng nghề) và làng người hoàn thiện sản phẩm cuối cùng.

Sản xuất hàng mây tre đan theo phương thức gia công là phương thức tổ chức sản xuất phổ biến trong các làng nghề. Các doanh nghiệp/cơ sở sau khi có hợp đồng tiêu thụ sản phẩm sẽ tổ chức sản xuất ngay tại DN để đáp ứng 1 phần sản phẩm, phần lớn sản phẩm được tổ chức sản xuất theo kiểu gia công cho người lao động trong các hộ gia đình hoặc giao cho các tổ hợp tác, HTX sản xuất theo mẫu mã qui định. Các hộ, các cơ sở sản xuất, người lao động nhận gia công sản xuất hàng mây tre đan được các doanh nghiệp ứng trước một phần vốn, thông thường là 60-70% giá trị hợp đồng.

Hình thức tổ chức chế biến và tiêu thụ sản phẩm mây tre đan có thể được mô phỏng qua sơ đồ sau:

Doanh nghiệp tuy không chiếm nhiều trong các làng nghề nhưng là những tổ chức sản xuất kinh doanh lớn có vai trò như là những hạt nhân trong sự phát triển của làng nghề. Sự phát triển của làng nghề với sự khôi phục các làng nghề truyền thống trong những năm gần đã thể hiện phần nào vai trò của các doanh nghiệp này trong việc tạo lập lại ngành hàng, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho cư dân nông thôn. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của ngành mây tre đan vẫn còn những hạn chế nhất định so với các ngành công nghiệp khác. Xét về độ tuổi các chủ doanh nghiệp phần lớn đã ở mức trên 45 tuổi. Số người ở độ tuổi từ 45 đến 60 chiếm tới 53.25% số người được hỏi, thậm chí còn tới hơn 5% số chủ doanh nghiệp đã ở tuổi nghỉ hưu. Đây cũng là một đặc điểm của ngành mây tre đan, yêu cầu cao về kinh nghiệm và kỹ năng, nhất là những nghệ nhân trong làng nghề. Trong khi đó những người ở độ tuổi dưới 35 chưa tới 10%, phần nào hạn chế tính năng động và sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. Yếu tố tuổi tác này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tính bảo thủ trong việc thiết kế mẫu mã và kỹ thuật của ngành mây tre đan trong những thập kỷ qua. Khoảng 1/5 số chủ doanh nghiệp được trưởng thành từ trong thực tiễn sản xuất kinh doanh (với qui trình cha truyền con nối). Mới chỉ có gần 15% số chủ doanh nghiệp có kiến thức về kinh tế thương mại hay tài chính. Phần lớn (tới hơn 62% số người được hỏi) trưởng thành không qua đào tạo chuyên môn chính qui. Phần lớn trưởng thành qua kinh nghiệm làm việc trong ngành.

Với đặc điểm của sản phẩm cũng như nguồn cung đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm chế biến sự phát triển của các doanh nghiệp mây tre đan gắn liền với các yếu tố mang tính không gian nhất định. Chính vì vậy các doanh nghiệp lớn thường tiến hành sản xuất ở các làng nghề (tập trung ở những vùng đông dân cư xa nguồn nguyên liệu) như Hà Tây, Hà Nam, Thanh Hóa…Trong việc cung cấp đầu vào thì làng nghề có ý nghĩa hơn đối với các cơ sở gia đình (gần 61% số cơ sở gia đình sử dụng các nhà cung cấp đầu vào tại làng nghề trong khi con số này chưa đến 28% đối với các doanh nghiệp. Đa số các doanh nghiệp lại chọn các nhà cung cấp đầu vào ở khoảng cách trên 10 km so với làng nghề. Điều này có thể giải thích từ nguyên nhân qui mô sản xuất cũng như điều kiện về phương tiện vận chuyển của doanh nghiệp.

Sản phẩm trong các làng nghề mây tre đan được sản xuất ra với 2 công dụng chính là các sản phẩm gia dụng thường dùng trong đời sống hàng ngày (dụng cụ sản xuất, dụng cụ sinh hoạt) và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Tuy nhiên, chúng lại rất phong phú về chủng loại, đặc biệt là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Chủng loại sản phẩm (thường gọi là mã hàng) được phân biệt rất chi tiết với sự khác nhau của từng đường nét hoa văn, màu sắc hay sự phối hợp các loại nguyên liệu. Đặc biệt trong những năm gần đây ngành hàng mây tre đã thêm một sản phẩm thủ công mỹ nghệ sử dụng nguyên liệu từ cây lục bình (bèo tây) ở Đồng bằng sông Cửu Long và nó được xem như là một phát kiến mới trong điều kiện nguồn nguyên liệu mây tre trong tự nhiên đang cạn kiệt và mở ra công ăn việc làm cho người dân trong vùng có thêm thu nhập. Ngành mây tre đan cũng đang hội nhập với kinh tế quốc tế với sự xuất hiện của những mặt hàng phi truyền thống như ván sàn, bàn ghế ép, nhà lắp ghép, v.v... Với những sản phẩm phi truyền thống này đã giúp cho các doanh nghiệp ngày càng phát triển và hệ thống ngành hàng ngày càng phong phú và hoàn thiện.

Tác nhân có vai trò quan trọng và chiếm số đông trong chuỗi ngành hàng là các hộ chuyên sản xuất sản phẩm mây tre đan tại các làng nghề. Số liệu khảo sát cho thấy họ chiếm tới ¾ số cơ sở tham gia chế biến mây tre. Các cơ sở này có thể gia công cho một công ty hay doanh nghiệp kinh doanh hàng mây tre xuất khẩu tại các đô thị hay trung tâm thương mại nào đó hoặc có thể xuất khẩu trực tiếp theo các đơn hàng mà họ ký với các nhà nhập khẩu nước ngoài. Mô hình tổ hợp tác hiện nay chỉ tồn tại ở một số nơi nhưng thực tế không phải là tổ chức sản xuất tập trung như trước kia mà chủ yếu là nơi khâu nối việc gia công của các xã viên và thực hiện các công đoạn hoàn thiện như đánh bóng, xử lý chống mốc, bao bì đóng gói, và tiêu thụ (trong hoặc ngoài nước).

Sơ đồ ngành hàng mây tre đan trong 2 thập kỷ gần đây có sự thay đổi nhất định. Nếu như những năm 80 tác nhân chính trong ngành thủ công mỹ nghệ là các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp thì ngày nay là các hộ gia đình, các cơ sở chế biến tư nhân. Số hộ chuyên sản xuất các sản phẩm mây tre đan chiếm tới 72% giá trị sản lượng trong ngành. Bên cạnh đó là sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ lao động nông nhàn và thời vụ (tới 25% giá trị sản lượng).!!

3. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu và cơ hội thách thức của các doanh nghiệp ngành mây tre đan

Những điểm mạnh

· Sử dụng lao động thủ công sẵn có tại các làng nghề, chi phí đào tạo không lớn.

· Có đội ngũ lao động giàu kinh nghiệp và tay nghề cao

Có đội ngũ doanh nhân đông đảo và năng động

Những điểm yếu

· SX trên địa bàn rộng, thu nhập của người lao động thấp

· Liên kết các tác nhân trong chuỗi chưa tốt.

· Hạn chế về vốn và công nghệ

· Mẫu mã và chất lượng sản phẩm chưa cao

· Khả năng tiếp cận thị trường kém

Những cơ hội

· Thị trường tiêu thụ còn rộng mở, xu hướng sử dụng sản phẩm thân thiện với môi trường; người tiêu dùng tại các nước nhập khẩu có khả năng chi trả cao

· Có khả năng áp dụng các công nghệ tiên tiến vào một số khâu của quá trình sản xuất

· Xuất hiện những xu hướng sản phẩm mới (nhà tre lắp ghép, bàn ghế ép...)

· Có sự hỗ trợ phát triển thông qua các chinh sách của Nhà nước và địa phương

Những thách thức

· Cạnh tranh lao động với các làng nghề khác và các khu công nghiệp

· Nguyên liệu ngày càng khan hiếm

· Khó qui hoạch thành các khu tập trung.

· Cơ sở hạ tầng còn yếu kém.

· Cạnh tranh với sản phẩm của một số nước có nghề mây tre đan phát triển như Trung Quốc, Thái Lan.

Một khó khăn không nhỏ trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mây tre đan là vấn đề vốn. Khi các DN có hợp đồng chỉ được ứng 1 phần tiền nhưng họ lại phải ứng với tỷ lệ khá cao cho người sản xuất nên rất khó khăn về vốn lưu động. Đa số lượng vốn vay là vốn ngắn hạn. Mặc dù điều này phù hợp với tình hình hiện nay của qui trình kinh doanh hàng mây tre đan (mang tính hợp đồng gia công theo đơn đặt hàng của khách hàng) nhưng xét về chiến lược rất khó có thể có những chiến lược sản phẩm hay chiến lược thị trường bền vững. Tỉ lệ doanh nghiệp được vay cũng không phải là nhiều nhất là đối với vốn dài hạn, chỉ dưới 5% số doanh nghiệp được hỏi.

Tình hình tiếp cận tín dụng của các đơn vị khảo sát

Loại hình tín dụng

Hộ gia đình

Doanh nghiệp

Số đơn vị

Tỉ lệ

(%)

Lượng vay (tr.đ)

Số đơn vị

Tỉ lệ

(%)

Lượng vay (tr.đ)

Ngắn hạn (dưới 12 tháng)

22

40.7%

159.0

11

47.8%

1288.6

Trung hạn (1-3 năm)

7

13.0%

59.3

1

4.3%

7000.0

Dài hạn (trên 3 năm)

2

3.7%

215.0

1

4.3%

200.0

Nguồn: Điều tra 2007

Khan hiếm nguyên liệu là vấn đề khó khăn rất lớn đối với các DN mây tre đan trên địa bàn. Xấp xỉ 90% nguyên liệu sản xuất các mặt hàng mây tre đan hiện nay ở Hà Tây phụ thuộc nguồn cung cấp từ các tỉnh ngoài, chi phí vận chuyển cao, tiêu cực phí trên đường vận chuyển lớn làm cho giá thành nguyên liệu bị đẩy lên cao.

Khả năng tìm hiểu thị trường, xây dựng thương hiệu sản phẩm, xúc tiến thương mại của các DN còn non kém. Hiện nay đa số các doanh nghiệp của Việt Nam đều sản xuất theo mẫu mã của nước ngoài hoặc nhái lại và gia công cho tập đoàn nước ngoài nên bị ép giá. Việc tham gia các triển lãm và hội chợ trong và ngoài nước của các doanh nghiệp bị hạn chế bởi nguồn tài chính không lớn.

4. Những giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt đông của các DNVVN trong ngành mây tre đan

Phân tích thực trạng phát triển ngành hàng và các tác nhân tham gia nhất là các doanh nghiệp mây tre đan vừa và nhỏ thời gian qua có thể đưa ra một số giải pháp như sau :

· Qui hoạch mặt bằng phát triển các DN mây tre đan:

Trước hết cần rà soát, điều chỉnh lại qui hoạch sử dụng đất (nếu đã có qui hoạch sử dụng đất) hoặc xây dựng phương án qui hoạch sử dụng đất; xây dựng phương án chuyển đổi mục đích sử dụng đất trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Chỉ có làm tốt công tác điều chỉnh qui hoạch mới xác định được quĩ đất dành cho phát triển công nghiệp nông thôn nói chung, các làng nghề mây tre đan nói riêng. Từ đó mới xây dựng được kế hoạch sử dụng đất, lên được phương án cụ thể về giải phóng mặt bằng hỗ trợ cho các đơn vị có yêu cầu mặt bằng sản xuất. Chính sách tạo mặt bằng cho các cơ sở chế biến mây tre đan cần được công bằng với các khu/cụm công nghiệp. Đối với các khu qui hoạch mặt bằng tập trung cho nhiều doanh nghiệp mây tre đan, cần được ngân sách tỉnh và huyện hỗ trợ xây dựng một số hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu ngoài hàng rào như hệ thống giao thông, hệ thống cung cấp điện, nước cho sản xuất. Hình thức xây dựng và phát triển các cụm công nghiệp nông thôn cần năng động sáng tạo huy động được sức mạnh tập thể, kết hợp hình thức đóng góp cổ phần trong việc đầu tư và khai thác. Chính quyền địa phương, các doanh nghiệp có nhu cầu cùng bàn bạc tìm phương án đầu tư và sử dụng hiệu quả nhất tránh lãng phí nguồn lực quốc gia và xã hội. Đối với những địa bàn hạn chế về quĩ đất cần phải tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong làng nghề một mặt bằng cần thiết để có thể xây dựng khu xử lý sản phẩm chuyên nghiệp đảm bảo vệ sinh và môi trường làng nghề.

· Tăng cường công tác đào tạo dạy nghề và đào tạo, xây dựng đội ngũ nghệ nhân cho các làng nghề:

Để khắc phục tình trạng cạnh tranh lao động giữa các làng nghề/doanh nghiệp mây tre đan với các doanh nghiệp và các khu công nghiệp khác, công tác đào tạo dạy nghề cho người lao động cần được ưu tiên và tăng cường. Trước hết cần nhận thức rõ việc đào tạo tay nghề và trình độ người lao động là công tác thường xuyên của các doanh nghiệp chứ không phải chỉ là những buổi tập huấn hướng dẫn làm mẫu như hiện nay. Chỉ có một đội ngũ công nhân có tay nghề cao mới có thể chủ động được những vận đơn hàng lớn và có giá trị. Các làng nghề, doanh nghiệp cần có sự rà soát, đánh giác chính xác chất lượng đội ngũ lao động đang làm nghề, thiết tha với nghề để xây dựng kế hoạch đào tạo nhân lực cho lâu dài. Trước hết cần phải xây dựng được đội ngũ nghệ nhân đông đảo, có trình độ kỹ thuật điêu luyện. Đội ngũ nghệ nhân vừa có nhiệm vụ sáng tác mẫu mã sản phẩm, vừa là lực lượng chủ công trong công tác đào tạo, truyền nghề cho thế hệ trẻ. Trong giai đoạn tới, các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần xem xét, công nhận danh hiệu nghệ nhân cho những lao động có đủ tiêu chuẩn và điều kiện. Nhà nước đã có những chỉ thị và hướng dẫn việc công nhận làng nghề và nghệ nhân nhưng việc thực hiện ở các địa phương còn chậm, chưa có sự quan tâm đúng mức và đầu tư thích đáng. Kết hợp nguồn quĩ hỗ trợ của tỉnh (quĩ khuyến công) với nguồn vốn của huyện, xã và các doanh nghiệp để tăng cường đầu tư cho công tác đào tạo, dạy nghề cho người lao động có nguyện vọng làm nghề lâu dài.

· Hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng vùng nguyên liệu:

Chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện tạo mọi điều kiện và có các biện pháp hỗ trợ cần thiết để các doanh nghiệp liên kết, liên doanh xây dựng vùng nguyên liệu (giao đất lâm nghiệp ổn định và lâu dài, tham gia các chương trình/dự án trồng rừng sản xuất…). Qui hoạch xây dựng vùng nguyên liệu tại địa phương thông qua việc qui hoạch đất trông nguyên liệu mây, tre, giang, nứa và có các biện pháp hỗ trợ về kỹ thuật, về vốn đầu tư cho các cơ sở, hộ nông dân trồng rừng nguyên liệu tại các địa bàn có tiềm năng phát triển lâm nghiệp. Bên cạnh đó cần phát triển nghiên cứu mẫu mã sản phẩm sử dụng các nguồn nguyên liệu sẵn có khác tại địa phương.

· Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mây tre đan tiếp cận các nguồn vón tín dụng, ngân hàng:

Các hợp đồng mua bán sản phẩm cần được chấp nhận là tài sản thế chấp có tính pháp lý cao trong vay vốn tín dụng. Giá trị đất mà doanh nghiệp được thuê cũng cần được tính toán và được sử dụng làm tài sản thế chấp vay vốn. Các thành viên tham gia Hiệp hội thủ công mỹ nghệ cần được Hiệp hội đứng ra tín chấp vay vốn. Trong tương lai có thể có những kênh hỗ trợ vốn đối với các doanh nghiệp thông qua chương trình phát triển của các hiệp hội ngành nghề hay nghiệp đoàn chế biến mây tre đan.

· Hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển thị trường:

Cần bố trí nguồn kinh phí hỗ trợ cần thiết cho các doanh nghiệp tham gia các hội chợ triển lãm, quảng bá sản phẩm sản phẩm trong và ngoài nước. Thông qua quỹ khuyến công hỗ trợ các chủ doanh nghiệp, các nghệ nhân đi tham quan, học hỏi kinh nghiệm, tìm kiếm và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài. Đầu tư kinh phí cho các hiệp hội, tổ chức nghề nghiệp trong việc hỗ trợ hệ thống thông tin thị trường, xây dựng các chương trình phát triển ngành hàng cũng như chuyển tải những thông tin thị trường mới nhất đến người sản xuất và các doanh nghiệp mây tre đan.

· Khuyến khích các doanh nghiệp liên kết liên doanh tạo sức cạnh tranh cao:

Tổ chức kiểm tra, phân loại các DN, tiến hành đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp/cơ sở chưa đăng ký để tạo ra mặt bằng cạnh tranh chung, tạo ra sự công bằng về nghĩa vụ nộp thuế theo luật định. Chính quyền địa phương cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các tổ hợp tác, HTX tiểu thủ công nghiệp và có các biện pháp hỗ trợ thích hợp về mặt bằng, về chính sách hỗ trợ đầu tư tín dụng, chính sách thuế ưu đãi... cho các cơ sở mới thành lập. Xây dựng những chương trình đầu tư quốc gia cho ngành mây tre đan thông qua các hiệp hội và tổ chức nghề nghiệp với mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia như: hỗ trợ doanh nghiệp mới thành lập, phong tặng các danh hiệu, mở rộng các dịch vụ xã hội về kinh doanh, pháp luật, v.v…. Tăng cường công tác kiểm tra vệ sinh môi trường để giữ gìn lợi ích chung cho cộng đồng doanh nghiệp. Có các biện pháp xử lý nghiêm khác đối với các cơ sở gây ô nhiễm môi trường, v.v…

chung

Thông tin thị trường

20.8

Vận chuyển

26.0

Mẫu mã sản phẩm

31.2

Chất lượng nguyên liệu

32.5

Sự hỗ trợ của Nhà nước

35.1

Bảo quản

35.1

Nguyên liệu

39.0

Mặt bằng sản xuất

51.9

Vốn

77.9

Tình hình tiếp cận tín dụng của các đơn vị khảo sát

Hộ gia đình

Doanh nghiệp

Loại hình tín dụng

Số đơn vị

Tỉ lệ (%)

Lượng vay (tr.đ)

Số đơn vị

Tỉ lệ (%)

Lượng vay (tr.đ)

Ngắn hạn (dưới 12 tháng)

22

40.7%

159.0

11

47.8%

1288.6

Trung hạn (1-3 năm)

7

13.0%

59.3

1

4.3%

7000.0

Dài hạn (trên 3 năm)

2

3.7%

215.0

1

4.3%

200.0

------------------------------------------------------

Những nội dung của báo cáo dựa trên kết quả nghiên cứu “Các giải pháp đối với các doanh nghiệp làng nghề chế biến mây tre đan” do tác giả và nhóm cộng sự thực hiện tại Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, năm 2007.


Phạm Minh Trí - Trung tâm tin học Thống kê - Bộ NNPTNT

Tin khác