Thực trạng phát triển bảo hiểm nông nghiệp tại Việt Nam: Quá trình và một số vấn đề (Kỳ 2)

17/05/2024

Quá trình áp dụng bảo hiểm tại Việt Nam trước năm 2018
Bảo hiểm nông nghiệp được bắt đầu thực hiện tại Việt Nam từ năm 1982 và đã trải qua 4 lần thí điểm khác nhau được thực hiện bởi Nhà nước, cùng với một số thí điểm nhỏ của các doanh nghiệp tại một số địa phương nhưng chưa thực sự mang lại hiệu quả. Thí điểm bảo hiểm nông nghiệp lần đầu tiên được thực hiện vào năm 1982-1984 tại hai huyện Vụ Bản và Nam Ninh, tỉnh Nam Định và thường thất bại do nông dân không tiếp tục tham gia. Sau đó, thí điểm lần thứ 2 được thực hiện vào năm 1987 nhưng phải dừng lại do quá trình cải cách nông nghiệp (Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, 2010). “Bảo hiểm nông nghiệp Nhà nước” phát triển mạnh mẽ nhất trong lần thí điểm lần thứ ba giai đoạn 1993 – 1998 cho cây lúa trên quy mô 12 tỉnh (1993), và 16 tỉnh (1996), với sự vào cuộc mạnh mẽ của các bên liên quan bao gồm Bộ Tài chính, công ty Bảo Việt và các chính quyền địa phương, bao gồm cả thí điểm mức hỗ trợ phí bảo hiểm 20% tại Hà Tĩnh. Tuy nhiên, lần thí điểm này tiếp tục phải dừng lại khi tỷ lệ bồi thường cao (110%), chi phí vận hành doanh nghiệp quá cao và quy mô thị trường cũng bị thu hẹp dần (Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, 2010). Tiếp đó, với sự ra đời của Luật Kinh doanh Bảo hiểm năm 2000, khái niệm “Bảo hiểm thương mại” đã ra đời và thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp với các sản phẩm bảo hiểm được cung cấp. Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm giai đoạn này rất nhỏ và chỉ dừng lại ở mức thí điểm và không được nhân rộng.

 

Năm 2011, Chương trình thí điểm bảo hiểm nông nghiệp quốc gia được thực hiện theo Quyết định 315/QĐ-TTG đánh dấu sự ra đời của hình thức bảo hiểm đối tác công tư và sự vào cuộc mạnh mẽ của các cơ quan nhà nước. Sau hơn ba năm thí điểm, chương trình đã đạt được những thành tựu nhất định như thu hút sự tham gia của hơn 300 nghìn hộ nông dân/tổ chức sản xuất, doanh thu phí bảo hiểm là 394 tỷ đồng cũng như những chuyển biến tích cực trong công tác điều hành, phối hợp giữa các cơ quan quản lý và doanh nghiệp bảo hiểm. Tuy nhiên, nhiều hạn chế vẫn còn xuất hiện trong giai đoạn thí điểm này như sự mất cân đối giữa các đối tượng tham gia, tỷ lệ bồi thường bình quân cao (lên đến 307% đối với bảo hiểm thủy sản).

Trong khi bảo hiểm nông nghiệp đang tồn tại nhiều rào cản, một số các loại hình bảo hiểm khác, bao gồm cả bảo hiểm phi chính thức vẫn cho thấy hiệu quả của bảo hiểm như mô hình “Quỹ bảo hiểm vật nuôi” tại Công ty cổ phần giống bò sữa Mộc Châu; Quỹ “Phòng chống rủi ro sản xuất” tại Tân Lập, Lạc Sơn, Hòa Bình; Mô hình “Bảo hiểm cho gia súc” tại Quảng Nam.

Thực trạng phát triển bảo hiểm nông nghiệp giai đoạn 2018 đến nay

Dựa trên kết quả của Chương trình thí điểm theo Quyết định 315, năm 2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định 58 về Bảo hiểm nông nghiệp - là văn bản điều chỉnh các hoạt động bảo hiểm nông nghiệp và các chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp nhằm khuyến khích các công ty bảo hiểm triển khai bảo bảo hiểm nông nghiệp và tạo điều kiện cho các tổ chức sản xuất và cá nhân trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp chủ động vượt qua cũng như bù đắp những tổn thất tài chính khi xảy ra rủi ro trong quá trình sản xuất. Nghị định gồm một chương (gồm 17 điều) qui định về các chính sách hỗ trợ, trong đó có nội dung về các sản phẩm bảo hiểm, đối tượng hưởng lợi, mức phí bảo hiểm, những rủi ro được bảo hiểm, nguồn tài chính, trình tự và thủ tục xác định và thực hiện trợ cấp phí bảo hiểm, v.v. Nhìn chung, các chính sách hỗ trợ được đưa ra trong Nghị định bao phủ khá rộng những sản phẩm được hỗ trợ (Ngành trồng trọt gồm: lúa gạo, cao su, tiêu, điều, cà phê, cây ăn quả, rau màu; Ngành chăn nuôi gồm: trâu, bò, lợn, gia cầm; Ngành thủy sản gồm:  tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cá tra), rủi ro được bảo hiểm, và khu vực được trợ cấp.

Trên cơ sở đó, Quyết định số 22/2019/QĐ-TTg về việc thực hiện chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp đã được ban hành, trong đó cụ thể hóa những đối tượng và rủi ro được bảo hiểm, mức trợ cấp, địa phương được hỗ trợ và thời gian thực hiện hỗ trợ trong giai đoạn hiện nay cho giai đoạn 2019 – 2020. Thời hạn này đã được kéo dài thời gian thực hiện theo Quyết định số 03/2021/QĐ-TTg. Đồng thời, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng bàn hành Thông tư số 09/2020/TT-BNNPTNT ngày 24/7/2020 hướng dẫn xác nhận thiên tai, dịch bệnh trong thực hiện chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp.

Hình 2: Sản phẩm và địa bàn triển khai bảo hiểm theo Quyết định 22/2019 và Quyết định 03/2021

Nguồn: Tác giả tổng hợp, 2022.

Theo đó, bảo hiểm nông nghiệp được hỗ trợ bao gồm lúa, trâu, bò, tôm sú và tôm thẻ chân trắng, trên phạm vi 19 tỉnh/thành của cả nước. Nhà nước hỗ trợ phí bảo hiểm 90% cho hộ nghèo và hộ cận nghèo, 20% cho hộ thường và các tổ chức sản xuất nông nghiệp tham gia vào chương trình bảo hiểm. Các rủi ro được bảo hiểm khá toàn diện, đặc biệt là các rủi ro thiên tai, tuy nhiên, các sản phẩm chăn nuôi chỉ được bảo vệ 2 rủi ro về dịch bệnh gồm lở mồm long móng và nhiệt than, trong khi sản phẩm thủy sản không được bảo hiểm cho các rủi ro dịch bệnh. Như vậy, chương trình bảo hiểm theo Nghị định 58 có mức tương đồng về mặt quy mô, nhưng có sự giảm xuống về mức trợ cấp phí bảo hiểm và rủi ro được bảo hiểm so với Chương trình thí điểm giai đoạn 2011 – 2013. Mặc dù vậy, phải đến này 26/5/2020, Bộ Tài Chính mới chính thức phê duyệt các sản phẩm bảo hiểm. Theo đó, Bảo Việt và Bảo Minh là hai doanh nghiệp được phê duyệt cung cấp cả sản phẩm bảo hiểm theo Nghị định 58/2018 và Quyết định 22/2019.

Về triển khai trên thực tiễn, đến nay Bảo Việt đang là đơn vị duy nhất thực hiện Chương trình bảo hiểm bao gồm: i) bảo hiểm lúa gạo thực hiện tại Nghệ An và Thái Bình, ii) bảo hiểm chăn nuôi tại Hà Giang. Về sản phẩm bảo hiểm thủy sản, mặc dù một số tỉnh đã thực hiện công tác tuyên truyền, vận động như Cà Mau, Sóc Trăng nhưng bảo hiểm nuôi trồng thủy sản vẫn chưa được triển khai do chỉ bảo hiểm rủi ro cho thiên tai mà không bảo hiểm dịch bệnh dẫn tới sức hút của bảo hiểm với nông dân thấp.

Về bảo hiểm cho lúa gạo, sản phẩm dựa trên bảo hiểm chỉ số năng suất dựa trên công nghệ viễn thám và dựa trên kết quả của dự án Hệ thống thông tin viễn thám và bảo hiểm nông nghiệp tại các nền kinh tế mới nổi (RIICE) do chính phủ Thụy sĩ tài trợ. Theo đó, Nghệ An thực hiện bảo hiểm cho cây lúa vụ Hè – Thu với 102 xã của 8 huyện vào năm 2020. Thái Bình thành công triển khai chương trình bảo hiểm trên địa bàn 4 huyện bao gồm: Tiền Hải, Hưng Hà, Kiến Xương và Thái Thụy bắt đầu từ cuối năm 2021. Kết quả thực hiện chương trình bảo hiểm được trình bày tại bảng dưới đây.

Bảng 2. Kết quả thực hiện bảo hiểm lúa gạo tại tỉnh Nghệ An (năm 2020) và Thái Bình (năm 2021)

Tỉnh

Số hộ tham gia bảo hiểm

Diện tích bảo hiểm (ha)

Giá trị được bảo hiểm

(tỷ đồng)

Doanh thu bảo hiểm

(triệu đồng)

Hộ nghèo

Hộ cận nghèo

Hộ thường

Phí hộ dân đóng

Ngân sách hỗ trợ

Nghệ An

915

3.904

2.473

1.465

39,1

674

1.333

Thái Bình

3.533

4.329

20

1.129

30,2

193.7

1.720,5

Nguồn: Báo cáo tổng kết thực hiện chương trình bảo hiểm tỉnh Nghệ An và Thái Bình, 2020 và 2021.

Các số liệu tại tỉnh Nghệ An về bồi thường cho thấy các rủi ro cơ sở đã xảy ra và gây ảnh hưởng rất lớn đến kết quả của hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại tỉnh này. Theo đó, tổng diện tích thiệt hại vụ Hè Thu năm 2020 bị thiệt hại được xác định là 139,04 ha /1.465 ha, thuộc 11 xã của 03 huyện, với số tiền bồi thường là 145,3 triệu đồng. Tuy nhiên, do có sự chênh lệch giữa số liệu tính toán và năng suất lúa thực tế nên nông dân vùng bị ảnh hưởng không đồng thuận với kết quả từ công nghệ viễn thám. Điều này dẫn tới, Chính quyền địa phương và Bảo Việt đã phải dừng bán sản phẩm bảo hiểm lúa gạo tại tỉnh này. Ngoài ra, do nguồn kinh phí thực hiện bảo hiểm chưa được Bộ Tài chính giao cho tỉnh dẫn tới việc chi trả cho Bảo Việt cũng bị chậm trễ.

Đối với bảo hiểm trâu, bò, sản phẩm được áp dụng theo hình thức bảo hiểm thiệt hại. Trong giai đoạn 2020 – 2021, Hà Giang triển khai bảo hiểm tại 57 xã thuộc 3 huyện trên toàn tỉnh. Tổng số đã có hơn 6.480 lượt vật nuôi được bảo hiểm. Công ty Bảo Việt Hà Giang tiếp nhận khai báo 5 con vật nuôi chết do rét và sét đánh, với mức chi trả 10,5 triệu/con.

Bảng 3. Kết quả thực hiện bảo hiểm vật nuôi tại tỉnh Hà Giang năm 2020 và 2021

Năm

Số hộ tham gia bảo hiểm

Số lượng vật nuôi được bảo hiểm

Giá trị được bảo hiểm

(tỷ đồng)

Doanh thu bảo hiểm

(triệu đồng)

Hộ nghèo và cận nghèo

Hộ thường

Phí hộ dân đóng

Ngân sách hỗ trợ

2020

3.478

3

4.791

71,9

2.370

264,7

2021

1.172

203

1.696

-

-

-

Nguồn: Báo cáo tổng kết thực hiện chương trình bảo hiểm tỉnh Hà Giang 2020, 2021

Một số tồn tại đối với bảo hiểm nông nghiệp trên thực tiễn

Mặc dù đã thu lại được những kết quả ban đầu về triển khai bảo hiểm nông nghiệp theo Nghị định 58/2018 của Chính phủ, quá trình áp dụng trên thực tế đã cho thấy vẫn còn nhiều bất cập cần phải giải quyết trong thời gian tới.

Về bảo hiểm lúa gạo, vấn đề lớn nhất trong việc thực hiện bảo hiểm chỉ số năng suất là phương pháp xác định năng suất sử dụng công nghệ viễn thám RIICE khác với thống kê truyền thống. Điều này dẫn đến bất đồng giữa các bên tham gia và ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tham gia bảo hiểm và triển khai bảo hiểm cho giai đoạn tiếp theo. Theo phản ánh của người dân và chính quyền địa phương, mức phí bảo hiểm còn cao so với thu nhập từ trồng lúa nên hạn chế sự tham gia của người sản xuất. Thêm vào đó, thời gian thực hiện bảo hiểm nông nghiệp theo Quyết định số 22/2019 là rất ngắn do các thủ tục phê duyệt sản phẩm kéo dài, và Quyết định số 03/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc kéo dài thời gian thực hiện được ban hành khá chậm đã khiến cho các doanh nghiệp và địa phương gặp rất nhiều áp lực về thời gian trong quá trình thực hiện. Việc xây dựng các văn bản cụ thể hóa của các Bộ, ngành tốn khá nhiều thời gian, điều này đã hạn chế việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp ở các địa phương do còn thiếu các văn bản hướng dẫn chi tiết. Việc thực hiện các thủ tục còn phức tạp, nhất là việc ban hành quyết định phê duyệt danh sách đối tượng được hỗ trợ phí bảo hiểm nông nghiệp tại các địa phương. Trong khi đó, hầu hết các địa phương chưa có nhiều kinh phí cho công tác tuyên truyền, triển khai bảo hiểm nông nghiệp dẫn đến quá trình triển khai còn nhiều hạn chế.

Về bảo hiểm vật nuôi, nhiều hộ chăn nuôi để có thu nhập trong thời gian ngắn, từ 2 đến 3 tháng, chăn nuôi theo tập quán chăn thả tự nhiên nên không đáp ứng được yêu cầu của bảo hiểm vật nuôi, đặc biệt là các khu vực miền núi. Sản phẩm bảo hiểm chỉ bao phủ 02 loại bệnh là Thán thư và Lở mồm long móng, trong khi đó, lở mồm long móng rất hiếm gây ra tử vong và nhiệt thán là bệnh rất hiếm gặp trong 10 năm trở lại đây. Điều này dẫn tới các rủi ro về dịch bệnh chưa đáp ứng được nhu cầu của người chăn nuôi. Các địa phương cũng cho rằng phí bảo hiểm còn cao khiến nông dân không khuyến khích mua bảo hiểm. Công tác phê duyệt danh sách hộ đủ điều kiện kéo dài, một số cán bộ địa phương chưa nghiên cứu, hiểu rõ các chính sách bảo hiểm quy định dẫn tới còn lúng túng trong triển khai. Kinh phí cho công tác tuyên truyền, triển khai bảo hiểm vật nuôi chưa được quy định rõ ràng dẫn đến quá trình triển khai còn nhiều vướng mắc, hạn chế.

Về bảo hiểm thủy sản, các sản phẩm bảo hiểm đã được ban hành tuy nhiên các sản phẩm không phù hợp với nhu cầu của người dân nên người dân không tham gia (các sản phẩm bảo hiểm tập trung cho rủi ro thời tiết mà không bảo hiểm cho dịch bệnh – đây là rủi ro lớn).

 

Kết thúc kỳ 2.

Bài đã đăng trên: Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia về “Vai trò của ngành bảo hiểm đối với sự ổn định xã hội và phát triển nền kinh tế” – Đại học Kinh tế quốc dân – năm 2022

Th.S Bùi Thị Việt Anh, Th.S Trần Thị Thủy, Th.S Thái Văn Tình, Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp/Ipsard


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.                Đặng Kim Khôi, Nguyễn Thị Kim Anh, Thái Văn Tình, Đỗ Huy Thiệp. (2017). Phát triển bảo hiểm nông nghiệp – Bài học từ Chương trình thí điểm bảo hiểm nông nghiệp quốc gia 2011 – 2013. Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, ISSN – 1859 – 4581, No.21/2017, p3 - 13

2.                Di Falco, S., Veronesi, M., & Yesuf, M. (2011). Does adaptation to climate change provide food security? A micro‐perspective from Ethiopia. American Journal of Agricultural Economics, 93(3), 829-846.

3.                Eckstein, D., Künzel, V., & Schäfer, L. (2017). Risk Index 2018. Who Suffers Most From Extreme Weather Events? Weather-related Loss Events in 2016 and 1997 to 2016.

4.                Hill, V. R. (2010, September). Agricultural insurance in Sub-Saharan Africa: can it work. In Fourth African Agricultural Markets Program (AAMP) policy symposium, Lilongwe, Malawi.

5.                Mai, V.C., Stive, M., Gelder, P.H.A.J.M.V. 2009. Coastal protection strategies for the Red River Delta. Journal of Coastal Research, 25(1), 105-116

6.                Wenner, M., & Arias, D. (2003, June). Agricultural insurance in Latin America: Where are we. In Inter-American Development Bank. Documento presentado en Paving the Way Forward for Rural Finance: An International Conference, Washington, DC.

7.                Zhu, T., and M. V. Trinh. 2010. Climate Change Impacts on Agriculture in Vietnam. In Proceedings of the International Conference on Agricultural Risk and Food Security, June 11–12, 2010, Beijing

8.                Mahul, O., Verma, N. & Clarke, D., 2012. Improving Farmers' Access of Agricultural Insurance in India. In: Policy Research Working Paper 5987. Washington: The World Bank.

9.                Stutley, 2011. Agricultural Insurance in Asia And The Pacific Region. Bangkok: Food and Agriculture Organization of the United Nation (FAO), Regional Office for Asia and the Pacific.

10.                Worldbank, 2010. Government Support to Agricultural Insurance Challenges and Options for Developing Countries. Washington: The International Bank for Reconstruction and Development / The World Bank.

 


Tin khác