Bàn tròn: Phát triển nông nghiệp bền vững

28/10/2011

Hội nghị Quốc tế Hiệp hội các nhà kinh tế nông nghiệp châu Á (ASAE) lần thứ 7 diễn ra tại Hà Nội mới đây với chủ đề “Nền nông nghiệp và kinh tế học nông nghiệp châu Á đối mặt với những thách thức vì sự phát triển bền vững trong tương lai”.

Gần 300 đại biểu đến từ hơn 50 quốc gia, trong đó hơn một nửa là khách quốc tế đã cùng nhau trao đổi về những kết quả nghiên cứu kinh tế, về học thuyết phát triển, phân tích nghiên cứu chính sách, thảo luận về hình mẫu phát triển nông nghiệp nông thôn trong khu vực. Đại biểu đến từ các nước châu Á tập trung nhiều vào các vấn đề: Nông nghiệp châu Á trong phát triển, biến đổi khí hậu và một nền nông nghiệp châu Á bền vững, tăng cường an ninh lương thực ở châu Á, phát triển nông thôn và đô thị hóa ở châu Á, đầu tư vào nông nghiệp và giảm đói nghèo… Châu Á đang hình thành và phát triển trở thành khu vực kinh tế mới của thế giới, trong đó nông nghiệp đóng vai trò quan trọng vào những thành công và phát triển của châu lục. Tuy nhiên, châu Á đang phải đối mặt với nhiều thách thức. Tăng trưởng nhu cầu sử dụng nông sản và lương thực của khu vực và thế giới đòi hỏi sự gia tăng sản xuất, nâng cao chất lượng. Trong khi đó, biến đổi khí hậu đang tác động ngày một rõ nét và gia tăng rủi ro đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và an ninh lương thực nói riêng.
Ông Choe yangboo - Chủ tịch Hiệp hội các nhà kinh tế nông nghiệp Châu Á
Hướng đến nền nông nghiệp năng động
Châu Á phụ thuộc vào nông nghiệp nhiều hơn so với phần còn lại của thế giới, bắt nguồn từ yếu tố lịch sử sản xuất chủ yếu thuộc về những nông dân sản xuất nhỏ. Đô thị hóa và công nghiệp hóa đang diễn ra nhanh chóng tại các nước đang phát triển ở châu Á, theo đó thách thức về an ninh lương lực đang là vấn đề “nóng” của các quốc gia khu vực. Do đó, các quốc gia cần thiết phải nâng cao năng lực sản xuất lương thực, chất lượng sản phẩm; cùng với đó là duy trì đất nông nghiệp, đặc biệt đất trồng lúa, để phát triển bền vững. Giá trị nông nghiệp trong tổng GDP khu vực đã giảm từ 36% năm 1961 xuống chỉ còn 12% hiện nay. Mặc dù trong thập kỷ vừa qua, đã có sự chuyển đổi nhanh chóng của nền kinh tế châu Á, nhưngg nông nghiệp vẫn rất quan trọng. Không chỉ vì khu vực này vẫn còn nghèo, mà vì có một số lượng lớn các hộ nông dân quy mô nhỏ ở châu Á chưa thể chuyển đổi đến được đô thị công nghiệp và dịch vụ việc làm khác chỉ trong một vài thập kỷ. Tại sao Châu Á vẫn còn rất nhiều những “túi đói nghèo” ở nông thôn, trong khi phần còn lại của nền kinh tế của họ rất năng động? Nguyên nhân có nhiều: nhiều địa phương bị cô lập hành vi bởi các lý do văn hoá, tập quán; cô lập địa lý và cơ sở hạ tầng kém; lưu thông hàng hóa kém; quản trị kém. Nhiều quốc gia đã nhầm lẫn sự suy giảm của nông nghiệp trong nền kinh tế là tín hiệu thành công của sự phát triển, để rồi họ đã bỏ qua việc đầu tư nguồn lực và chính sách cho phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cuối cùng họ nhận được bài học đắt giá: tình trạng trì trệ và nghèo đói ngày càng tồi tệ. Thực tế đã minh chứng rằng, con đường bền vững duy nhất thoát khỏi đói nghèo là năng suất nông nghiệp cao hơn cùng với một nền kinh tế phi nông nghiệp năng động, chuyển đổi cơ cấu hài hòa. Nó là một quá trình cân bằng tổng thể, với nông nghiệp gắn liền với những gì đang xảy ra trong phần còn lại của nền kinh tế.
Châu Á đang trở thành khu vực kinh tế mới của thế giới, trong đó nông nghiệp đóng vai trò quan trọng vào những thành công và phát triển của châu lục này. Tuy nhiên, nền kinh tế nông nghiệp ở châu Á đang đối mặt với nhiều thách thức. Tăng trưởng nhu cầu sử dụng nông sản, lương thực của khu vực và thế giới đòi hỏi sự gia tăng sản xuất, nâng cấp chất lượng. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu đang tác động ngày một rõ nét và gia tăng rủi ro đối với sản xuất nông nghiệp nói chung, an ninh lương thực nói riêng. Tăng trưởng kinh tế cao một mặt giúp cư dân thành thị cải thiện thu nhập, chất lượng cuộc sống, kéo theo đó nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao về chất lượng lương thực, thực phẩm, về khẩu vị, dinh dưỡng và an toàn thực phẩm… Mặt khác, tăng trưởng nhanh lại làm tăng khoảng cách thu nhập nông thôn – thành thị, nhiều vấn đề nảy sinh mới dẫn đến những bất ổn ở nông thôn. Bối cảnh này đặt ra yêu cầu nghiên cứu mới về kinh tế nông nghiệp và đổi mới chiến lược phát triển nông thôn trong kỷ nguyên mới, cần phải tìm ra hình mẫu tối ưu cho phát triển nông nghiệp nông thôn trong khu vực, để cùng hướng Châu Á đến một nền nông nghiệp năng động trong thời đại mới.
Ba mục tiêu phát triển bền vững, an ninh lương thực và thu nhập cao hơn cho người nghèo nông thôn cần phải được đặt trong một khuôn khổ chính sách nông nghiệp. Mục tiêu chính sách trong khuôn khổ này đơn giản là dành cho tất cả các hộ gia đình có quyền được tiếp cận với nguồn lương thực, thực phẩm đáp ứng đủ nhu cầu, thực phẩm bổ dưỡng và đảm bảo sức khỏe. Trong một thế giới lý tưởng, các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng cơ chế kinh tế dưới sự kiểm soát của họ để hướng các hộ nông dân sản xuất đến các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn. Với ngắn hạn, cần phải đảo ngược tình thế thiếu lương thực của thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Về dài hạn, các nhà hoạch định chính sách cũng phải tìm đủ nguồn lực, và cơ chế chuyển giao hiệu quả, để đảm bảo rằng người nghèo không rơi vào bẫy nghèo đói, và đưa nông dân trở thành những người giàu có. Khi nền kinh tế toàn ổn định, và khi giá lương thực được bình ổn ở mức hợp lý, các nhà hoạch định chính sách có thể tập trung vốn chính trị và tài chính của họ vào quá trình dài hạn, để nông nghiệp tăng trưởng toàn diện.
TS Đặng Kim Sơn – Viện trưởng Viện Chính sách nông nghiệp nông thôn (Ipsard)
5 kiến nghị về quản lý KHCN trong nông nghiệp
Trong 25 năm đổi mới, nhờ các yếu tố đầu vào như đất đai, nước tưới, lao động, vật tư…. Lĩnh vực nông nghiệp nông thôn đã duy trì được mức tăng trưởng cao đều đặn 4 – 5%, giúp Việt Nam đạt được những thành công đáng kể về phát triển kinh tế xã hội: đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo, duy trì mức xuất siêu nông sản. Tuy nhiên, tới nay, sau khi hầu hết các nguồn lực này đã đến mức giới hạn tăng trưởng của ngành nông nghiệp bắt đầu chững lại và có xu hướng giảm: năm 2008 tăng trưởng GDP của ngành 4,7%; đến năm 2010 còn 2,8%. Rõ ràng đã đến lúc chúng ta phải chuyển từ một nền nông nghiệp tăng trưởng theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu (hiệu quả, năng suất, giá trị gia tăng phải thay thế cho quy mô sản lượng), trong đó , động lực của chính sách, hiệu quả của KHCN và các biện pháp quản lý phải trở thành nguồn lực chính tạo nên tăng trưởng.
Trong những năm gần đây, Bộ NN-PTNT đã thay đổi mạnh công tác quản lý KHCN: về tổ chức đã và đang gom bớt đầu mối từ vài chục Viện xuống còn 11 Viện chính. Số cán bộ nghiên cứu khoa học tăng lên gần 8.000 người, cán bộ khuyến nông tăng 33.000 người. Đầu tư xây dựng cơ bản và nghiên cứu cũng tăng mạnh, gấp 10 lần so với 10 năm trước. Dù vậy, những nỗ lực này chưa đem lại thay đổi quan trọng về kết quả KHCN. Yếu tố cản trở lớn nhất cho hoạt động của các cơ quan KHCN công lập không phải là kinh phí hay cơ sở vật chất, mà chính là đội ngũ cán bộ thiếu động lực.
Mặc dù Nhà nước đã đưa ra Nghị định 115, Nghị định 43, Nghị định 80 để trao quyền tự chủ cho cơ quan sự nghiệp hoạt động KHCN công lập, thậm chí cho phép thành lập các doanh nghiệp KHCN nhưng những văn bản trên đi vào cuộc sống rất chậm (Nghị định 115 đã phải lùi thời hạn thực hiện từ 2009 đến năm 2013). Cho tới nay, các cơ quan sự nghiệp vẫn tiếp tục quan hệ “xin – cho” với các cơ quan quản lý về nhiều hoạt động tổ chức và tài chính. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là có cơ quan quản lý Nhà nước không muốn mất quyền, một số cán bộ làm công tác quản lý không muốn mất lợi. Do vậy, vẫn chưa hình thành được quan hệ thị trường trong hoạt động KHCN và cơ chế quản lý KHCN vẫn mang dáng dấp của kinh tế kế hoạch trước kia. Kế hoạch nghiên cứu khoa học do các cơ quan quản lý Nhà nước lập ra với ý kiến tham mưu của những người đứng đầu các cơ quan nghiên cứu công lập không tính đến yêu cầu thực tế đặt ra hàng ngày từ thực tế sản xuất. Hoạt động đấu thầu cũng tập trung trong phạm vi các đơn vị này và hội đồng chọn thầu, đánh giá nghiệm thu kết quả cũng quanh quẩn trong một số “cây đa, cây đề” trên, thiếu ý kiến trực tiếp của người sử dụng. Do vậy, tình trạng nể nang nhau, thậm chí là tiêu cực khó tránh khỏi. Vì thế, đối với người nghiên cứu, sản phẩm cuối cùng chỉ là báo cáo khoa học với mục đích cuối cùng chỉ là được Hội đồng thông qua, còn tiến bộ khoa học đó có được áp dụng hay không, có đem lại lợi ích cho nông dân hay không lại không phải là mối quan tâm của họ. Chưa có một cán bộ khoa học, một cán bộ khuyến nông bị trừ lương vì không đem lại tiến bộ kỹ thuật cho nông dân, hay một Viện nghiên cứu nào bị giải thể hoặc lãnh đạo bị cách chức vì không có kết quả nghiên cứu được ứng dụng.
Tôi kiến nghị 5 vấn đề cần phải thay đổi đối với quản lý KHCN trong nông nghiệp. Một là, chia kinh phí KHCN thành 3 nhóm: nhóm 1 phục vụ các nhiệm vụ nghiên cứu mang tầm ngành do lãnh đạo Bộ quản lý; nhóm 2 phục vụ những nghiên cứu đáp ứng các vấn đề cụ thể của sản xuất kinh doanh do đại diện người sử dụng tham gia quản lý; nhóm 3 phục vụ các nghiên cứu có triển vọng về khoa học và các nhiệm vụ KHCN thường xuyên do đại diện các nhà nghiên cứu quản lý. Hai là, đơn giản hóa thủ tục quản lý tài chính, hướng vào khoán đến sản phẩm KHCN cuối cùng. Đối với nghiên cứu úng dụng, sản phẩm cuối cùng là một giống mới, một mẫu máy mới, hay một kỹ thuật mới… được người sản xuất hoặc cơ quan kiểm định chứng nhận. Đối với sản phẩm KHCN thường xuyên cũng khoán đến kết quả cuối cùng như: kết quả điều tra khảo sát; kết quả phân tích thị trường; kết quả dự báo dự tính… được các cơ quan sử dụng công nhận. Ba là, do đặc thù của ngành nông nghiệp là tiến bộ kỹ thuật không thể giữ được bản quyền, vì vậy Nhà nước cần có phương thức thu lại lợi nhuận của người sản xuất kinh doanh thông qua phí, thuế để phân phối lại cho cán bộ nghiên cứu. Bốn là, cần ban hành chế độ xây dựng và sử dụng nhà công vụ để đảm bảo điều kiện sống cho cán bộ KHCN. Năm là, phải khuyến khích đầu tư tư nhân và quốc tế đầu tư vaò nghiên cứu khoa học nông nghiệp. Nếu hoạt động KHCN được “chủ nhân hóa, thị trường hóa, tư nhân hóa, quốc tế hóa” thì sẽ huy động được nguồn lực to lớn của xã hội và quốc tế, đưa sản xuất nông nghiệp lên một tầm cao mới.
Giáo sư C. Peter Timmer - Đại học Harvard (Mỹ)
Đảm bảo an ninh lương thực thế giới
Trong nhiều thập kỷ qua, nhờ sự nỗ lực của nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế, đứng đầu là hệ thống các cơ quan của Liên Hợp quốc, trong đó có Tổ chức Lương - Nông Liên Hợp quốc (FAO), sản xuất lúa gạo đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Năm 2010, diện tích lúa toàn thế giới đạt hơn 161 triệu hecta với sản lượng hơn 680 triệu tấn, năng suất 4,2 tấn/ha. So với năm 1961, diện tích lúa tăng 50 triệu hecta, sản lượng tăng 470 triệu tấn và năng suất tăng 2,25 lần. Riêng trong vòng một thập kỷ qua, sản lượng lúa thế giới đã tăng 75 triệu tấn, chủ yếu là do áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Hiện thế giới vẫn có hơn một nửa dân số, tương đương với 3 tỉ người, phải sống dựa vào lúa gạo. Tuy nhiên, hiện vẫn còn 925 triệu người bị đói và thiếu dinh dưỡng, nạn thiếu lương thực trên toàn thế giới đang đe dọa mạng sống của hơn 100 triệu người, vì thế thế giới cần sản xuất thêm 50 triệu tấn gạo vào năm 2015 để có thể đáp ứng được nhu cầu.
Hiện nay việc đảm bảo an ninh lương thực (ANLT) của các nước đã không còn nằm trong khuôn khổ của từng quốc gia mà trở thành mối quan tâm chung của cộng đồng quốc tế. Do đó, nếu các nước không cùng nhau thống nhất đưa ra các giải pháp mang tính toàn cầu, cùng thực hiện thì việc đảm bảo lương thực cho người dân là rất khó. Điều này có nghĩa, tình trạng nghèo đói tiếp tục gia tăng và đồng nghĩa với việc các mục tiêu thiên niên kỷ sẽ khó đạt được. Hiện, đầu tư cho nông nghiệp của các nước rất khác nhau. Các nước đang phát triển phần lớn sống chủ yếu vào nông nghiệp song thu hút đầu tư vào lĩnh vực này quá khó khăn, việc hợp tác giữa các đối tác công - tư vẫn chưa mang lại nhiều hiệu quả. Vì thế, chỉ khi nào tất cả các nước có chung quan điểm, cùng thống nhất trong hành động, khi đó việc ổn định sản xuất lúa gạo mới mang lại hiệu quả cao. Nếu không có sự đa dạng và cải tiến trong kỹ thuật trồng lúa thì việc đảm bảo nguồn lương thực trong tương lai sẽ rất khó. Trong cuộc chiến chống thiếu hụt lương thực, cần phải thúc đẩy tìm kiếm những giải pháp bền vững và toàn diện cho cuộc khủng hoảng lương thực thế giới đang diễn ra ngày càng trầm trọng. Ngoài ra, cần phải phân tích và nhận định đúng về những xu hướng phát triển lúa gạo và các lương thực khác trên thế giới. Một trong những xu hướng đáng quan tâm là sản xuất lúa ngoài lãnh thổ, mà các nước tiêu biểu như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, Việt Nam… đang thực hiện. Phương thức này bao gồm việc ký kết hợp đồng thuê ruộng đất, trồng lúa ở các nước khác, có khi ở thật xa, ví như ở châu Phi và Nam Mỹ.
Khoảng 90% sản lượng gạo của toàn thế giới được sản xuất tại châu Á nhưng lại có tới 65% dân số của châu lục này đang bị thiếu lương thực. Hiện sản lượng lúa của Việt Nam chiếm trên 90% cây lương thực có hạt, liên quan đến việc làm và thu nhập của khoảng 80% số hộ nông dân. Lúa gạo cung cấp khoảng 60% năng lượng trong khẩu phần ăn của người dân. Vì vậy, cây lúa hạt gạo không chỉ có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm ANLT của Việt Nam mà còn góp phần vào tăng nguồn cung lương thực trên thế giới. Trong hơn 20 năm qua, sản xuất và kinh doanh lúa gạo của Việt Nam đã phát triển vượt bậc, đưa Việt Nam từ nước nhiều năm thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới. Lũy kế từ khi bắt đầu xuất khẩu gạo đến nay, Việt Nam đã xuất khẩu trên 85 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch gần 28 tỷ USD.
Thu nhập của người trồng lúa ở Việt Nam ngày càng được nâng lên. Mặc dù vậy, sản xuất lương thực của Việt Nam, trong đó có lúa gạo, vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trong bối cảnh dân số tăng nhanh, đất nông nghiệp ngày càng suy giảm, nguồn nước hạn chế, thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh xảy ra với tần suất ngày càng cao và khốc liệt. Việt Nam đang ra sức khắc phục những hạn chế, yếu kém trong sản xuất kinh doanh lúa gạo, trong đó tập trung thực hiện các chính sách giữ ổn định diện tích đất trồng lúa; tăng cường đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi; đẩy mạnh cơ giới hoá trong sản xuất, chế biến; cải tiến về giống và đẩy mạnh áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong canh tác, phòng trừ sâu bệnh, giảm tổn thất trong và sau thu hoạch; gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ; nâng cao thu nhập cho người trồng lúa gắn với phát triển nông thôn ngày càng văn minh, hiện đại; đồng thời tích cực thực hiện các biện pháp hạn chế tác động của biến đổi khí hậu.
TS Nguyễn Trí Khiêm – Đại học An Giang
Cá tra: từ cô bé lọ lem thành hoàng hậu
Nghề nuôi cá tra ở Việt Nam đã nổi lên như một trong những thành công nhất của nuôi trồng thủy sản trên thế giới, đạt tăng trưởng trung bình 25% mỗi năm kể từ năm 2003. Trong năm 2010, toàn ngành cá tra Việt Nam đã sản xuất 1,2 triệu tấn cá, khoảng 90% sản lượng này đã được xuất khẩ, đem lại kim ngạch 1,5 tỷ USD. Ngành công nghiệp cá tra Việt Nam đã được ca tụng như là một câu chuyện “Cô bé Lọ Lem” trở thành hoàng hậu, vì đây là khu vực nuôi trồng thủy sản phát triển nhanh nhất trên thế giới. Tuy nhiên, sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành công nghiệp cá tra đã tạo ra một loạt những lo ngại về tính bền vững lâu dài trong sản xuất, cũng như vị trí của người sản xuất quy mô nhỏ trong chuỗi giá trị.
Ngành cá tra luôn gặp phải rất nhiều chông gai. Đầu tiên là vấp phải vụ kiện chống bán phá của Hiệp hội những người nuôi trồng cá da trơn của Mỹ vào năm 2003. Hậu quả là thuế nhập khẩu được áp đặt tương đương với tỷ lệ bán phá giá. Ngay sau đó, xuất khẩu cá tra sang Mỹ giảm khoảng 50%. Tác động đối với nông dân từ việc mất thị phần ước tính từ 17-63%, tương đương 30% thu nhập. Cú sốc của vụ kiện, đã lộ ra các lỗ hổng của ngành công nghiệp sản xuất và chế biến cá tra, dẫn đến chuyển dịch cơ cấu đáng kể các hợp đồng và đầu tư. Các nhà chế biến đã đẩy thiệt hại do tăng thuế vào nông dân nuôi cá. Thế nhưng, bất chấp trở ngại đó, cá tra vẫn không ngừng đa dạng hóa thị trường, từ EU, Canada và Austraylia… Đến nay, sản phẩm cá tra Việt Nam đã có mặt ở hơn 50 quốc gia. Phần lớn sự thành công của phát triển thị trường cá tra nằm ở chỗ lợi thế cạnh tranh về giá, nó đã liên tục đẩy nhiều loài cá màu trắng truyền thống ở châu Âu ra ngoài để chiếm lĩnh thị trường. Vấn đề oái oăm là, việc giảm giá đã bán không phải vì chi phí sản xuất giảm, mà là bởi sự cạnh tranh giữa các công ty chế biến xuất khẩu tại Việt Nam, doanh nghiệp nào cũng muốn giành thị phần lớn hơn. Kể từ 2007 đến nay, ngành nuôi trồng cá tra liên tục rơi vào tình trạng khủng hoảng, đầu ra khi thừa khi thiếu. Trong giai đoạn 2006-2008, tỷ lệ nông dân để trống ao nuôi lên đến 37%.
Đến nay, sự phát triển của ngành sản xuất cá tra Việt Nam vẫn chưa theo kế hoạch và không được kiểm soát. Ngân hàng thế giới (WB) từng đưa ra dự báo, rằng sản lượng cá tra VN sẽ đạt 1,5 triệu tấn vào năm 2010 và 2 triệu tấn vào năm 2020. Với VN, cá tra là một phần quan trọng trong kế hoạch của chính phủ để trở thành mũi nhọn kinh tế xuất khẩu. Vấn đề cần quan tâm là, làm thế nào để có thể duy trì sự phát triển bền vững của ngành cá tra đã trở thành một thách thức rõ ràng. Sự toàn cầu hóa tiêu thụ cá tra đã dẫn đến rủi ro thị trường cao, khiến ngày càng nhiều các tổ chức quốc tế áp đặt những bộ tiêu chuẩn chất lượng cho cá tra. Để nông dân vượt qua được một loạt những rào cản mà họ phải đối mặt, họ buộc phải thay đổi quy trình sản xuất có chiến lược thích ứng để có thể duy trì hoặc nâng cấp vị trí của họ trong chuỗi giá trị toàn cầu. Nhiều cơ quan quốc gia và các hiệp hội, cũng như hỗ trợ quốc tế đã hỗ trợ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cải thiện hiệu suất của ngành. Tuy nhiên, họ cũng công nhận một cách rõ ràng tầm quan trọng của việc duy trì vị trí của người nuôi nhỏ lẻ, bởi vì số lượng nông dân nuôi cá quy mô nhỏ là rất lớn. Các tổ chức quốc gia và quốc tế cần hỗ trợ nông dân để thích nghi với điều kiện thị trường thay đổi. Cần phải giảm giá thành sản xuất cá tra ngay tại ao nuôi của nông dân. Trước đây, hầu hết người nuôi cá tra phụ thuộc vào việc sử dụng thức ăn tự chế. Nhưng giờ đây, ước tính từ 50-75% ao nhà sản xuất đang sử dụng thức ăn viên sản xuất công nghiệp. Nhờ sự thay đổi loại thức ăn, đã tác động đáng kể vào việc tăng tỷ lệ chuyển đổi thức ăn, giảm chi phí thức ăn và hạ giá thành. Chuyển dịch theo hướng trang trại sản xuất lớn đang là xu thế tất yếu, và được coi là hướng đảm bảo nguồn cung bền vững của các công ty chế biến thủy sản, khi vấn đề cạnh tranh tăng chất lượng sản phẩm và an toàn đã trở thành bắt buộc. Công ty chế biến cần phải ký kết hợp đồng thu mua cá trực tiếp với nhiều hộ nông dân hoặc thu mua cá tươi từ các nhà sản xuất lớn hơn, để giảm nguy cơ hơn so với sản xuất nhỏ về các yêu cầu an toàn thực phẩm, cũng như khối lượng sản phẩm lớn, liên tục gia tăng giá trị cho sản phẩm. 
TS Phạm Văn Hùng – Đại học Nông nghiệp Hà Nội
Mất đất nông nghiệp và gia tăng thất nghiệp
Tốc độ phát triển kinh tế nhanh đang tạo ra sự chuyển đổi đất nông nghiệp mạnh mẽ sang công nghiệp tại Việt Nam. Bình quân mỗi năm có hơn 73.000 ha đất nông nghiệp chuyển đổi sang đất phi nông nghiệp, do đó ảnh hưởng đến trực tiếp 2,5 triệu người. Những nghiên cứu đã cho thấy tác động cả tích cực và tiêu cực của vấn đề này. Một mặt, công nghiệp hóa có thể được xem như là một chiến lược hiệu quả cho sự phát triển kinh tế, nâng cấp cơ sở hạ tầng và xóa đói giảm nghèo, bằng cách tạo ra triển vọng việc làm cho lao động nông thôn và tối ưu hóa sử dụng tài nguyên. Tuy nhiên, thực tế hiện nay: gia tăng số lượng nông dân thất nghiệp vì mất đất, ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia và các hộ gia đình, tác động ô nhiễm môi trường, chênh lệch thu nhập và các mâu thuẫn xã hội là một trong những vấn đề nổi bật nhất phát sinh từ quá trình này.
Nghiên cứu được thực hiện trong 3 huyện của tỉnh Hưng Yên 2006-2010, tập trung phân tích rất nhiều vấn đề liên quan đến việc chuyển đổi đất đai, tích tụ đất đai và ảnh hưởng đến sinh kế của người dân. Hưng Yên là một trong những tỉnh có sự chuyển đổi đất cho công nghiệp hóa mạnh nhất ở miền Bắc Việt Nam. Trước năm 2000, Hưng Yên là tỉnh "thuần nông" và có rất ít dự án đầu tư. Hiện nay có 5 khu công nghiệp (diện tích mỗi khu từ 100-500 ha) và 7 cụm công nghiệp (dưới 100 ha) tại Hưng Yên. Từ năm 2000 đến nay, trung bình mỗi năm đất nông nghiệp ở Hưng Yên đã giảm 870 ha cho công nghiệp hóa, đô thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng. Trước đây, bình quân mỗi hộ gia đình ở Hưng Yên có 2002.6m2 đất nông nghiệp, thì hiện nay chỉ còn 723m2/hộ. Việc chuyển đổi đất nông nghiệp sang công nghiệp đã làm thay đổi giá trị của đất. Giá đất, cả đất nông nghiệp, đất nhà tăng nhanh. Do cơ sở hạ tầng địa phương đã được cải tạo đặc biệt là việc cải thiện đường giao thông, trường học, trạm chăm sóc sức khỏe đã khuyến khích người dân đô thị mua đất ở các khu vực nông thôn. Nhiều người giàu ở các vùng nông thôn cũng quan tâm đầu tư mua bán đất đai để có được lợi nhuận cao hơn. Tại nhiều xã ở Hưng Yên, chỉ trong vòng 10 năm từ 2000-2010, giá đất cư trú tăng 150 lần, giá đất nông nghiệp tăng 30 lần.
Sau khi giao lại đất cho các khu công nghiệp, các hộ gia đình chỉ còn giữ lại được phần đất nông nghiệp rất nhỏ, và phần lớn các hộ gia đình nông dân đã không duy trì được việc sản xuất nông nghiệp. Một số hộ gia đình cố gắng giữ đất của họ ngay cả khi nó nhỏ để tiếp tục canh tác nông nghiệp. Tuy nhiên, năng suất rất thấp vì thiếu hệ thống thủy lợi và diện tích nhỏ nên thu nhập chẳng đáng là bao, trong khi bán đất sẽ được số lượng tiền cao hơn rất nhiều, bởi vậy ngày càng nhiều nông dân đã bán đất canh tác. Trao đổi đất nông nghiệp thường là trao đổi không chính thức, bởi không phải tất cả các hộ gia đình có Giấy chứng nhận sử dụng đất. Hơn nữa, các thủ tục hành chính đối với đất trao đổi đất nông nghiệp rất phức tạp. Vì vậy tình trạng mua bán đất nông nghiệp một cách bất hợp pháp ngày càng gia tăng, hầu như không có sự chứng thực hoặc sự đồng ý của chính quyền địa phương. Những người mua đất nông nghiệp và đông đảo nông dân đã tự ý chuyển đất nông nghiệp thành đất cư trú hoặc đất dịch vụ, bằng việc xây nhà, xây xưởng sản xuất lên đó.
Song hành với chuyển đổi đất nông nghiệp, thì tình trạng thất nghiệp ở nông thôn đang ngày càng gia tăng. Trong 5 năm qua, lao động liên quan đến sản xuất nông nghiệp đã giảm 24,9%, thế nhưng số lượng lao động tìm thấy một công việc trong khu vực chính thức (làm công nhân ở cả các nhà máy và các tổ chức nhà nước) chỉ tăng 9,4%. Tại Việt Nam, dân số nông thôn là 60,9 triệu người trong năm 2010. Mặc dù, Việt Nam đã có sự thay đổi mạnh mẽ trong phát triển kinh tế, nhưng tỷ lệ lao động nông thôn vẫn còn ở mức cao. Để có việc làm mưu sinh sau khi mất đất, đông đảo các thành viên nam trong các hộ gia đình nông thôn phải rời khỏi làng của họ để tìm kiếm việc làm phi nông nghiệp ngắn hạn hoặc dài hạn. Các thành viên nữ thường tìm kiếm các công việc tạm thời trong thôn, làng, hoặc nơi khác. Một phần các thành viên nữ cũng tìm ra thành phố làm phi nông nghiệp để kiếm thêm thu nhập, bao gồm cả làm nghề giúp việc hoặc lao động tay chân. Thất nghiệp gia tăng và tình trạng di cư tìm việc, công việc không ổn định đang gây ra rất nhiều hệ lụy bất ổn cho phát triển kinh tế ở nông thôn. Một câu hỏi đang thách thức là, làm thế nào để phân bổ lao động nông thôn một cách hiệu quả? 
TS Nguyễn Đỗ Anh Tuấn - Giám đốc Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp (thuộc Viện Ipsard)
Ưu đãi đầu tư nông nghiệp chưa hấp dẫn doanh nghiệp
Đầu tư hiện nay cho nông nghiệp, nông thôn quá thấp và chưa xứng với tiềm năng và đóng góp của khu vực này cho phát triển kinh tế - xã hội nước ta. Suy giảm đầu tư trong nông nghiệp, nông thôn là vấn đề rất cần quan tâm khi ngành này vẫn có đóng góp rất quan trọng cho nền kinh tế. Tăng trưởng nông nghiệp ổn định và bền vững là nền tảng để tạo ra ổn định xã hội, ổn định mức thu nhập cho người lao động và tạo ra lợi thế cạnh tranh cho Việt Nam. Đối với các nước có dân số đủ lớn khi tiến hành công nghiệp hóa thì việc đảm bảo nguồn lương thực, thực phẩm đầy đủ cho chuyển đổi lực lượng lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp là yếu tố mấu chốt cho sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có một điều đáng lưu ý ở đây là nông nghiệp là ngành duy nhất trong nền kinh tế tạo ra lượng xuất khẩu ròng dương (năm 2010 xuất siêu của ngành nông lâm ngư nghiệp đạt khoảng 13 tỷ USD), trong khi các ngành khác đều nhập nhiều hơn là xuất. Và theo tính toán của chúng tôi thì ngành nông nghiệp cũng có sức lan tỏa lớn nhất về liên kết đầu vào, đầu ra so với các ngành kinh tế khác.
Nếu dùng hệ số ICOR là đại diện cho hiệu quả đầu tư giữa các ngành thì tôi nhận thấy hiệu quả đầu tư cho nông nghiệp cũng chẳng kém gì các ngành khác, nếu không nói là còn hiệu quả hơn. Nhưng trên thực tế, đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn chỉ chiếm dưới 10% tổng vốn đầu tư xã hội, trong đó một nửa là đầu tư của Nhà nước. Không có lĩnh vực kinh tế nào của Việt Nam lại phụ thuộc nặng nề vào viện trợ nước ngoài như nông nghiệp. Đây thực sự là một vấn đề đáng quan tâm không chỉ vì lý do xóa đói giảm nghèo cho khu vực nông thôn, tạo công bằng xã hội mà quan trọng hơn là chúng ta đang bỏ quên khu vực có tiềm năng rất lớn và là một trong những động lực để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Khó thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp có cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quản. Đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn mặc dù có thể đem lại hiệu quả cao nhưng cũng gặp rủi ro lớn về thời tiết, thị trường cả đầu vào và đầu ra. Với xuất phát điểm thấp thì cần tạo điều kiện cực kỳ ưu đãi về cơ sở hạ tầng (điện, nước, kho bãi, đường giao thông, cầu cảng), đất đai và vốn thì mới có thể tạo đủ sức hấp dẫn lôi kéo các doanh nghiệp lớn vào đầu tư nâng cao giá trị gia tăng cho sản xuất nông nghiệp. Cơ sở hạ tầng nông thôn còn rất nghèo nàn so với thành thị để đủ sức hấp dẫn nhà đầu tư. Điện cung cấp cho nông thôn mất thường xuyên, mới dùng để thắp sáng và chưa phục vụ cho tưới tiêu, sản xuất. Nguồn cung cấp nước sạch cho sinh hoạt ở nông thôn vẫn còn thiếu, chưa nói đến hệ thống cung cấp nước cho sản xuất. Mới chỉ có 43% diện tích cây rau màu và cây công nghiệp được tưới chủ động.
Có đến 40% doanh nghiệp nông nghiệp, nông thôn trả lời là đối với họ việc “loại bỏ hoặc hạn chế thủ tục quan liêu” trong đối xử đối với doanh nghiệp là quan trọng nhất để giúp họ phát triển sản xuất kinh doanh. 76% doanh nghiệp nông nghiệp, nông thôn cho rằng thủ tục phức tạp là trở ngại cho khả năng phát triển của doanh nghiệp trong 5 năm tới, trong đó 33% cho là đặc biệt trở ngại. Các chính sách vĩ mô từ trước tới nay chủ yếu vẫn ủng hộ sự phát triển của các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu hoặc tạo ra cơ hội lợi nhuận lớn cho các ngành phi sản xuất tài chính, chứng khoán, bất động sản nên các doanh nghiệp tư nhân lớn nhất của Việt Nam cũng như các tập đoàn nước ngoài lớn phần lớn đều có mặt trong các ngành này. Nhưng lại rất ít doanh nghiệp lớn và các nhà đầu tư nước ngoài có tiếng tăm trên trường quốc tế đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
Về các giải pháp cụ thể nhằm tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống của nông dân, chúng ta có thể học hỏi rất nhiều kinh nghiệm từ các nơi có điều kiện sản xuất nông nghiệp tương tự như chúng ta như Đài Loan (Trung Quốc), Thái Lan, Nhật Bản… Các nơi này đều có xuất phát điểm từ nông nghiệp nên trong giai đoạn đầu của công nghiệp hóa, họ chú trọng đầu tư rất lớn cho các cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Tại Đài Loan chẳng hạn, khi vấp phải vấn đề đất đai phân tán manh mún như chúng ta, họ đưa các nhà khoa học xuống nông thôn để chuẩn bị kỹ lưỡng việc quy hoạch đất đai và thông qua nông hội để bàn bạc với người dân thống nhất phương án quy hoạch lại đất đai. Khi người dân đồng ý, Chính phủ sẽ tài trợ toàn bộ tiền để cải tạo lại ruộng đồng và làm đường giao thông nội đồng. Kết quả là, mặc dù hiện nay quy mô ruộng đất của nông hộ vẫn ở mức 1ha nhưng các mảnh ruộng trở nên vuông vắn, dễ canh tác bằng máy, thu hoạch dễ dàng và tạo điều kiện áp dụng các kỹ thuật sản xuất và thu hoạch mới để nâng cao giá trị sản phẩm.
 
Chu Khôi - Thời báo Kinh tế Việt Nam (VnEconomy)  thực hiện

 


Tin khác