Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm đẩy mạnh hơn nữa sản xuất nông nghiệp. Việc tăng cường đầu tư, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp cũng ngày càng được quan tâm. Nhiều địa phương như: Bình Dương, Cần Thơ, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Lâm Đồng, thành phố Hồ Chí Minh... đã thiết lập những chương trình, dự án và đầu tư cả quỹ đất, nhân lực, thiết bị để xây dựng các khu NNCNC nhằm thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển bền vững, hướng vào công nghệ cao, đang chuyển hướng quy hoạch những vùng trồng cây nông nghiệp để không chiếm đất và cho ra giá trị kinh tế cao, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm để cạnh tranh được với nông sản nhập khẩu, tiến tới xuất khẩu.
Mặc dù cho đến nay, nhiều mô hình NNCNC đã được xây dựng như khu NNCNC của Hà Nội, Hải Phòng, Lâm Đồng, thành Phố Hồ Chí Minh... với mức đầu tư mỗi mô hình vài chục tỉ đồng (Hà Nội đầu tư 24 tỉ, Hải Phòng 22, 5 tỉ). Các khu NNCNC này đã bước đầu được đưa vào hoạt động và cho những kết quả nhất định. Tuy nhiên cũng có nhiều vấn đề đặt ra mà chúng ta cần suy ngẫm và giải quyết, nhất là những khó khăn gặp phải trong việc nhân rộng và phát triển mô hình trong sản xuất. Có rất nhiều ý kiến và quan điểm đưa ra cho phát triển NNCNC tại Việt Nam, trong khuôn khổ bài viết này xin nêu ra một số ý kiến đóng góp.
Một số quan điểm chính về NNCNC và đề xuất những mô hình NNCNC phù hợp
Hiện có hai quan niệm chính về công nghệ cao trong nông nghiệp.
Thứ nhất, dựa trên lý thuyết của J. H. Von Thunew (1986 ), cho rằng các khu NNCNC là nơi hội tụ các thành tựu tiên tiến nhất về công nghệ sinh học, hoá học, vật liệu, thông tin và tự động hoá trong một hệ thống nông nghiệp tập trung nhằm tạo ra một quy mô sản xuất và trình diễn công nghệ, có tác dụng quyết định đối với việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Đây là quan niệm phổ biến tại các nước công nghiệp phát triển như Mỹ và Nhật Bản... Với cách hiểu như vậy, chức năng của các khu NNCNC ngoài việc sản xuất còn bao hàm các chức năng khác như trình diễn và lôi kéo, chức năng đào tạo và chuyển giao công nghệ, chức năng phục vụ du lịch, tham quan và nâng cao hiểu biết của người dân.
Thứ hai, phổ biến tại Trung Quốc, vùng lãnh thổ Đài Loan cho rằng khu NNCNC có chức năng sản xuất là chính. Đây là nơi tập hợp các tiến bộ KH &CN về sinh học, hoá học, cơ khí, tự động hoá... kết hợp với những kinh nghiệm truyền thống tốt để tạo ra bước đột phá về năng suất, chất lượng sản phẩm và quan trọng hơn cả là cho hiệu quả kinh tế cao. Theo kinh nghiệm của Trung Quốc thì NNCNC là một loại hình tổ chức xã hội mới được hình thành theo nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Khu NNCNC là điểm trình diễn KH &CN, là nơi hội tụ nhân tài với môi trường thích hợp cho việc sáng tạo khoa học, được đầu tư tập trung, là địa điểm để đổi mới công nghệ và cũng là khu vườn ươm để tạo ra cũng như chuyển giao công nghệ. Từ các khu NNCNC, các sản phẩm mang tính công nghệ cao được hình thành và trở thành hàng hoá có ưu thế cao trên thị trường, các công nghệ mới được tạo ra và nhân rộng, tạo cơ hội việc làm và tăng tài sản cho đất nước, cho từng vùng và từ đó tạo đà đưa kinh tế đi lên.
Tại Việt Nam, có một số quan niệm về NNCNC như sau.
Nhiều ý kiến cho rằng NNCNC là một nền sản xuất nông nghiệp có yêu cầu vốn đầu tư lớn, được tiến hành chủ yếu trong nhà có mái che (nhà kính, nhà màn, nhà nilon...) với những trang thiết bị hiện đại, đồng bộ, kết hợp của nhiều công nghệ, với môi trường sản xuất vệ sinh, sạch sẽ, được chủ động điều khiển, đáp ứng đầy đủ yêu cầu sinh trưởng, phát triển của cây /con. Đối tượng sản xuất chủ yếu là cây /con cho hiệu quả kinh tế cao. Kỹ thuật sử dụng tại khu NNCNC là kỹ thuật canh tác tiên tiến, đồng bộ, có tính chuyên nghiệp. Người quản lý và công nhân sản xuất có kiến thức, trình độ chuyên môn giỏi. Sản phẩm được tạo ra có năng suất và chất lượng cao, chủ yếu để xuất khẩu hoặc phục vụ những khách hàng có yêu cầu cao về chất lượng.
Một số ý kiến khác lại cho rằng NNCNC được biểu hiện ở các nội dung sau: Có khả năng tạo ra bước đột phá về năng suất, chất lượng sản phẩm; cho hiệu quả sản xuất cao; đảm bảo được an toàn môi sinh và sức khoẻ cộng đồng; có khả năng áp dụng rộng rãi hoặc áp dụng được cho quy mô sản xuất công nghiệp trong những điều kiện sản xuất nhất định.
Theo Bộ NN &PTNT, NNCNC được coi là một nền nông nghiệp có sử dụng các công nghệ thông tin, vật liệu mới, sinh học, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ quản lý nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản, hàng hoá, bảo đảm phát triển bền vững. Theo ý kiến của các chuyên gia thì chức năng của khu NNCNC gồm: Sản xuất sản phẩm có trình độ cao, có tính cạnh tranh; trình diễn và lôi kéo; giáo dục, đào tạo và chuyển giao công nghệ; nghỉ ngơi, thăm quan.
Như vậy có thể nói rằng, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế và xã hội của mỗi nước và quan điểm của mỗi người mà các khu NNCNC có những nội dung và tiêu chí khác nhau. Trong điều kiện của Việt Nam, chúng tôi cho rằng việc xây dựng và phát triển các khu NNCNC cần dựa vào điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của từng vùng. Căn cứ vào mức độ đầu tư, trình độ công nghệ, quy mô và mục tiêu phát triển có thể phân thành 4 mức độ công nghệ trong sản xuất nông nghiệp:
Nông nghiệp thông thường
Sản xuất nông nghiệp thuộc loại hình này thường được thực hiện theo phương thức sản xuất hiện hành, đại diện cho trình độ phát triển về KH &CN chung của cả vùng, miền, hay đất nước. Phương pháp sản xuất chủ yếu dựa vào kỹ thuật thông thường với những công cụ sản xuất phổ biến sẵn có. Người sản xuất là những người nông dân bình thường hoặc chưa có vốn lớn để đầu tư sản xuất, hoặc chưa được tiếp cận nhiều với công nghệ sản xuất tiên tiến. Do sự phát triển khác nhau về kinh tế, xã hội, KH&CN và do tập tính sản xuất khác nhau mà trình độ công nghệ về nông nghiệp thông thường ở mỗi vùng, miền hoặc các nước khác nhau là không giống nhau. Tuy nhiên kiểu hình nông nghiệp loại này thường có đặc điểm là được thực hiện bởi đại đa số người sản xuất nông nghiệp và đóng vai trò chính trong việc tạo ra sản phẩm tiêu dùng của một địa phương, vùng, miền hay đất nước.
Nông nghiệp thông thường kết hợp với công nghệ cao
Loại hình sản xuất được phát triển dựa trên nền tảng của nông nghiệp thông thường. Trong loại hình sản xuất nông nghiệp này, một hoặc một số công nghệ tiên tiến được kết hợp với công nghệ thông thường nhằm phát huy thế mạnh (hay hạn chế những yếu tố bất thuận) về điều kiện khí hậu, đất đai, trình độ và kinh nghiệm của người sản xuất để tạo ra các sản phẩm tiêu dùng với số lượng nhiều hơn, chất lượng tốt hơn, đáp ứng yêu cầu thực tế của sản xuất và tiêu dùng. ở Việt Nam, có thể kể tới những mô hình sử dụng nhà kính, nhà nilon làm tăng nhiệt độ, giảm thiểu tác hại của mưa bão; sử dụng nhà màn, nilon đen giảm ánh sáng, nhiệt độ, ngăn côn trùng; sử dụng công nghệ tưới nước tiết kiệm cho vùng khô hạn... Để phát triển loại mô hình này thì việc điều tra, tìm hiểu kỹ về điều kiện khí hậu, đất đai, loại cây trồng, yêu cầu của thị trường và công nghệ tác động chủ lực là hết sức cần thiết. Đây là những mô hình đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu (kể cả cho điều tra, quy hoạch và xây dựng mô hình) không quá lớn, thường mang lại hiệu quả kinh tế cao và dễ áp dụng, mở rộng trong phạm vi của vùng, miền...
Nông nghiệp kỹ thuật cao
Loại hình sản xuất này cơ bản áp dụng những công nghệ tiên tiến nhất trong sản xuất nông nghiệp (như công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học, công nghệ dinh dưỡng...). Việc tạo ra số lượng hàng hoá nông sản lớn, có chất lượng tốt, khả năng cạnh tranh cao trên thị trường trong, ngoài nước và mang lại hiệu quả kinh tế cao là những yêu cầu và tiêu chí cần thiết của loại hình công nghệ này. Ngoài áp dụng những kỹ thuật mới nhằm phát huy tối đa điều kiện thuận lợi hay hạn chế tối thiểu điều kiện bất thuận của vùng, miền nhằm tăng năng suất, chất lượng cây /con như đã nêu ở phần trên, công nghệ quản lý và trình độ của cán bộ, công nhân là những yếu tố then chốt cho việc xây dựng thành công loại mô hình này. Có thể nói đây là loại hình nông nghiệp tập trung và trong giai đoạn hiện nay thì mô hình này cần được xem xét mở rộng nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp và các ngành công nghiệp phụ trợ khác phát triển. Đây là loại mô hình dễ được phổ biến rộng trong sản xuất một khi nó được tập trung đầu tư và mang lại hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng được những nhu cầu về tiêu dùng của xã hội. Đây cũng là nơi đặt hàng cho các nhà khoa học và giúp họ có thể đưa những thành tựu KH &CN mới nhất vào trong sản xuất. Tuy nhiên, do yêu cầu mang lại hiệu quả kinh tế cao là một trong những mục tiêu hàng đầu nên nhà đầu tư thường tập trung vào ứng dụng hoặc mua công nghệ, vì vậy việc hội tụ nhân tài và tạo môi trường thích hợp cho sáng tạo khoa học thường chưa phải là những ưu tiên chính của loại hình nông nghiệp này.
Nông nghiệp công nghệ cao
Đây phải là điểm mẫu, điểm trình diễn KH &CN, là nơi hội tụ nhân tài với môi trường thích hợp cho sáng tạo khoa học, được đầu tư tập trung, là địa điểm để đổi mới công nghệ và cũng là khu vườn ươm để tạo ra và chuyển giao công nghệ. Từ đây công nghệ mới được tạo ra, các sản phẩm mang tính công nghệ cao, có hàm lượng chất xám cao được hình thành và dần trở thành hàng hoá có ưu thế cao trên thị trường. Tuy nhiên, xét về hiệu quả đầu tư thì loại hình công nghệ này có thể không mang lại ngay những lợi ích kinh tế rõ rệt trước mắt mà có tính lâu dài. Việc đầu tư cho loại hình công nghệ này cũng cần phải có chiến lược lâu dài, được cân nhắc kỹ và không thể tuỳ tiện được.
Việc chia làm 4 loại hình công nghệ trên trong sản xuất nông nghiệp chỉ mang tính tạm thời. Tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, trình độ KH &CN và xã hội ở mỗi vùng, mỗi địa phương mà mỗi loại hình công nghệ có tầm quan trọng khác nhau. Đối với những nơi xa trung tâm kinh tế và thương mại lớn, các mô hình nông nghiệp thông thường kết hợp với công nghệ cao và nông nghiệp kỹ thuật cao có thể mang lại những lợi ích lớn hơn. Ngược lại, ở khu vực thuộc hoặc gần những trung tâm kinh tế lớn thì xây dựng các mô hình NNCNC với đầy đủ tiêu chí về đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc, hội tụ nhân tài, nâng cao trình độ KH &CN, quản lý và phục vụ tham quan, du lịch là hết sức cần thiết.
Một số vấn đề cần cân nhắc trong xây dựng các khu NNCNC
Khu NNCNC cần thoả mãnK:
Yêu cầu về kinh tế, xã hội và môi trường
Xây dựng và phát triển khu NNCNC là yêu cầu cấp bách, tuy nhiên cần có sự tìm hiểu đánh giá kỹ về điều kiện kinh tế, xã hội của từng vùng vì mỗi vùng có nhu cầu phát triển riêng. Điều kiện kinh tế của vùng (nguồn thu nhập của người dân và nguồn thu ngân sách địa phương để xây dựng khu NNCNC) có những ảnh hưởng trực tiếp tới thành công của khu NNCNC. Tại đây, vốn đầu tư ban đầu thường rất lớn, do vậy giá thành sản phẩm được tạo ra thường sẽ cao hơn so với những sản phẩm cùng loại được sản xuất bằng phương pháp thông thường. Đối với một số tỉnh, thành phố có nhiều khu công nghiệp sẽ cần có các khu NNCNC để cung cấp một lượng nông sản dồi dào và an toàn vệ sinh thực phẩm.
Hiệu quả kinh tế mang lại từ khu NNCNC có thể không thấy rõ ngay trong những năm đầu triển khai mà sẽ thu được sau một thời gian. Tuy nhiên, các khu NNCNC có thể mang lại những lợi ích xã hội như tạo thêm công ăn, việc làm mới, nâng cao dân trí và có tác động tích cực tới môi trường, do sử dụng ít hơn hay quản lý tốt hơn phân hoá học và thuốc bảo vệ thực vật. Hơn nữa, hiệu quả kinh tế sẽ mang tính lâu dài và bền vững một khi những mô hình này được phát triển mạnh trong sản xuất.
Khi xây dựng khu NNCNC cũng nên chú trọng tới mặt bằng dân trí của vùng. Không phải công nghệ nào cũng được áp dụng thành công nếu cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và người sản xuất không nắm vững công nghệ. Do vậy, trước khi xây dựng khu NNCNC cần có chính sách và kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực. Công tác khuyến nông và thông tin tuyên truyền cũng cần phải đi trước một bước.
Ngoài việc tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, khi xây dựng mô hình NNCNC cũng cần chú ý tới việc bảo vệ tính đa dạng và bền vững của tài nguyên thiên nhiên. Do sản phẩm từ khu NNCNC thường mang tính đồng nhất nên việc duy trì đa dạng sinh học về giống cây /con bản địa cũng hết sức cần thiết.
Yêu cầu về điều kiện tự nhiên
Hiện nay, chúng ta hầu như chưa có những nghiên cứu đồng bộ về ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên (vị trí địa lý, điều kiện đất đai, ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm và các yếu tố khí hậu khác như bão, gió) đến khu NNCNC và những vật liệu đi kèm trong xây dựng. Thời gian, cường độ chiếu sáng và nhiệt độ trong ngày của từng thời vụ trong năm không những ảnh hưởng trực tiếp tới sự sinh trưởng, phát triển của cây trồng mà còn ảnh hưởng gián tiếp đến việc lựa chọn vật liệu, cấu trúc nhà có mái che và bố trí cơ cấu giống cây trồng phù hợp. Có thể điều khiển quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng nhằm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm thông qua tăng, giảm nhiệt độ hoặc kéo dài, rút ngắn thời gian chiếu sáng. Cường độ và chất lượng ánh sáng cũng là những yếu tố có ảnh hưởng tới sự ra hoa, kết quả của cây trồng trong các khu nhà kính, nhà lưới.... Do vậy việc lựa chọn vật liệu che phủ và bố trí hệ thống chiếu sáng trong khu nhà kính, nhà màn, nhà lưới, nhà nilon... cũng cần phải được nghiên cứu và bố trí một cách hợp lý.
Việc bố trí hệ thống tưới tiêu và lựa chọn vị trí xây dựng khu nhà kính, nhà màn... cần căn cứ vào lượng mưa và độ ẩm trong năm của từng vùng. Ngay cả đối với công nghệ canh tác khí canh, thủy canh cũng cần bố trí các trang thiết bị phù hợp cho những vùng có lượng mưa và độ ẩm khác nhau.
Nước ta thường bị tác động bởi gió bão nên khi xây dựng các khu nhà kính, nhà lưới hay nhà màn cần chu ý đến hướng gió, khung nhà chịu lực cùng vật liệu xây dựng và che phủ khác (theo tiêu chuẩn xây dựng của Israel khung nhà phải chịu được tốc độ gió là 150 km /h).
Ngoài ra, việc xây dựng khu NNCNC có thể kết hợp với sử dụng những vùng đất hoang hóa, đất bạc màu nhưng có điều kiện tiểu khí hậu thuận lợi. Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, điều khiển ánh sáng và nhiệt độ, đặc biệt là việc giảm nhiệt độ hay tăng cường cường độ ánh sáng, là những việc làm tốn kém và mất nhiều công sức. Ngược lại, sẽ dễ dàng hơn nếu áp dụng những công nghệ tác động lên các yếu tố khác như dinh dưỡng và độ ẩm. Một số quốc gia trên thế giới đã xây dựng thành công các khu NNCNC sản xuất rau, hoa có năng suất và chất lượng cao trên những vùng sa mạc khô cằn nhưng chan hoà ánh nắng đã phần nào minh chứng điều đó.
Yêu cầu về kỹ thuật
Tại các khu NNCNC cần phải áp dụng những thành tựu tiên tiến nhất của KH &CN. Đó là công nghệ sinh học được ứng dụng trong chọn giống và nhân giống cây trồng (thông qua công nghệ gen, công nghệ nuôi cấy mô, tế bào...), công nghệ sinh học bảo vệ thực vật bằng cách tạo ra các thuốc trừ sâu sinh học, công nghệ dinh dưỡng cây trồng thông qua điều tiết dinh dưỡng, ẩm độ, nhiệt độ và ánh sáng. Công nghệ vật liệu nghiên cứu sử dụng các màn che chắn để phòng sâu, bệnh, che nắng, mưa, màn lọc ánh sáng, giảm nhiệt, giảm tia cực tím và nghiên cứu khoáng, giá thể không đất. Công nghệ tin học sử dụng trong điều khiển tự động độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng, điều tiết quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Công nghệ bảo quản sau thu hoạch bằng các trang thiết bị hiện đại như nhà lạnh, bảo quản bằng điều chỉnh khí CO2, ô xy, bảo quản bằng chiếu xạ, bằng môi trường áp suất thấp.... Công nghệ quản lý thông qua các phương pháp quản lý hợp lý để khai thác tối đa những ưu thế về điều kiện khí hậu, đất đai của vùng cũng như việc điều tiết và thương mại hoá sản phẩm. Ngoài ra, đây phải là điểm để trình diễn về những công nghệ mới nhất có tính tuyên truyền cao để mọi người tham quan, học tập.
Yêu cầu về nguồn nhân lực
Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao theo kịp tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành nông nghiệp là hết sức cần thiết. Xây dựng khu NNCNC ngoài các trang thiết bị hiện đại cần có đội ngũ cán bộ quản lý giỏi về chuyên môn, tinh thông quản trị kinh doanh; cán bộ kỹ thuật chuyên sâu về công nghệ sinh học, kỹ thuật canh tác, hiểu biết về trang thiết bị máy móc, thành thạo vi tính và giỏi ngoại ngữ; kỹ thuật viên lành nghề, đặc biệt đội ngũ công nhân nông nghiệp được đào tạo chuyên sâu, biết vận hành và sử dụng máy móc. Để đạt được mục tiêu trên cần có sự liên kết giữa người sử dụng và nơi đào tạo. Ngoài ra, trong một số công việc có liên quan tới chuyên gia nước ngoài, cần có những công nhân có trình độ ngoại ngữ nhất định.
Yêu cầu về số lượng cán bộ làm việc trong khu NNCNC tùy thuộc vào quy mô sản xuất và mặt hàng kinh doanh. Tuy nhiên, cho một mô hình công nghệ cao trong sản xuất cây trồng có quy mô 5-10 ha thì số lượng cán bộ quản lý giỏi có thể cần từ 2 đến 3, cán bộ chuyên môn sâu cần 8-10, số lượng kỹ thuật viên lành nghề cần 15-20 và công nhân là 15-20 người.
*
* *
Trong sản xuất nông nghiệp của nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển, thường áp dụng nhiều mức công nghệ khác nhau để sản xuất ra những mặt hàng nông sản đa dạng phục vụ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Có thể chia ra làm 4 mức độ công nghệ đó là: 1) Nông nghiệp thông thường với những công cụ, kỹ năng sản xuất hiện hành; 2) Nông nghiệp thông thường kết hợp với công nghệ cao; 3) Nông nghiệp kỹ thuật cao sử dụng trang thiết bị và kỹ thuật hiện đại; 4) NNCNC ngoài việc sử dụng trang thiết bị hiện đại còn bao hàm cả chức năng thu hút nhân tài, trình diễn lôi kéo, giáo dục, đào tạo và chuyển giao công nghệ cũng như phục vụ nghỉ ngơi và thăm quan. Các mức độ công nghệ không thể tách rời mà luôn chuyển động, liên kết với nhau, tạo đà cho sản xuất phát triển. Do sự phát triển chung của xã hội và của nền kinh tế, những kỹ thuật, công nghệ cao của ngày hôm nay có thể sẽ trở thành thông thường, phổ biến trong tương lai. Ngược lại, những công nghệ thông thường, hiện hành có thể làm nền tảng cho việc phát triển NNCNC. Chính vì vậy, phát triển NNCNC không thể tách rời với việc phát triển đồng bộ các mô hình sản xuất nông nghiệp khác, nhất là nông nghiệp thông thường kết hợp với công nghệ cao và nông nghiệp kỹ thuật cao.
Để phát triển các mô hình NNCNC, mỗi địa phương, vùng, miền cần căn cứ vào mục tiêu, nhu cầu phát triển, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mình. Công nghệ cao chỉ mang lại hiệu quả lớn khi nó có thể phát huy hết tiềm năng của mỗi địa phương. Vì vậy mỗi nơi phải lựa chọn cho mình công nghệ mới, trang thiết bị mới, giống mới để tạo ra sản phẩm hàng hoá có hàm lượng chất xám cao, nhưng phù hợp với trình độ dân trí và điều kiện kinh tế của địa phương và của người dân.
Đầu tư cho phát triển NNCNC không thể chỉ tính tới lợi ích trước mắt mà cần phải có chiến lược, kế hoạch và mang tính lâu dài. Vì vậy, Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi và đầu tư phù hợp cho khu NNCNC. Chính quyền các cấp và các bộ, ngành cũng cần có những quyết sách mạnh dạn cho việc hình thành và phát triển các khu NNCNC. Do trình độ về KH &CN của ta còn có những khoảng cách nhất định so với nhiều nước phát triển khác nên chúng ta có thể cân nhắc nhập nội một phần hay trọn gói công nghệ, cũng như thuê chuyên gia nước ngoài tư vấn và điều hành một số khâu trong sản xuất. Thông qua làm việc với chuyên gia bạn và tiếp cận với công nghệ tiên tiến, hiện đại, cán bộ, công nhân của ta có thể nắm bắt và làm chủ những quy trình công nghệ tiên tiến này, từ đó tạo đà cho NNCNC trong nước phát triển.
TS Bùi Huy Hiền - Viện trưởng Viện Nông hóa - Thổ nhưỡng:
Trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển, công nghệ cao đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong nông nghiệp để sản xuất ra các mặt hàng nông sản có năng suất và chất lượng cao. Khu NNCNC đem lại nhiều lợi ích: Năng suất lao động nông nghiệp tăng 50-100 lần, giúp giải phóng lao động nông nghiệp chuyển sang các ngành kinh tế khác; Tăng năng suất và sản lượng nông sản trên một đơn vị diện tích 10-15 lần, tiết kiệm đất nông nghiệp để chuyển một phần sang phát triển đô thị, công nghiệp, dịch vụ và trồng cây xanh, trồng rừng, giúp vừa cải thiện môi trường vừa phục vụ mục tiêu kinh doanh sinh thái sau này; Nông sản sạch, đồng nhất, chất lượng tốt, ít tổn thất, tỷ lệ thành phẩm cao; Tiết kiệm tài nguyên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường; Có tính lôi cuốn cao, khuyến khích nông dân áp dụng thành tựu KH &CN thay đổi phương thức sản xuất, là cách làm ngắn nhất để hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn đồng đều giữa các vùng lãnh thổ. Để phát triển NNCNC, chúng ta cần:
- Có chính sách phù hợp, động viên khuyến khích các nhà khoa học, các cơ sở nghiên cứu thực hiện chủ trương sản nghiệp hoá các cơ quan nghiên cứu và thương mại hoá các sản phẩm khoa học.
- Phối hợp tốt giữa các lực lượng xã hội, trong đó đặc biệt là 4 nhà: Quản lý, doanh nghiệp, khoa học và nông dân (nông dân hoặc bán đất hoặc đóng cổ phần bằng đất vào các khu NNCNC, chuyển từ lao động nông nghiệp sang công nghiệp, có thu nhập cao và ổn định hơn nhiều).
- Có sự trợ giúp của các ngành kinh tế - kỹ thuật khác cho nông nghiệp, nhất là công nghiệp cơ khí, chế tạo, hoá học, tin học...
- Nhà nước hỗ trợ đầu tư và có chính sách cho các chủ đầu tư khu NNCNC vay vốn ưu đãi để đầu tư hạ tầng, trên cơ sở có quy hoạch mặt bằng tổng thể và chi tiết đã được phê duyệt.
- Đầu tư và quản lý đầu tư với các khu NNCNC phải được nhận thức đầy đủ là đầu tư cho sản xuất kinh doanh nông nghiệp ở trình độ cao về khoa học quản lý và KH &CN (tránh bao cấp, thụ động).
Nguyễn Văn Chinh - Phó Viện trưởng Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp:
Chiến lược tổng thể về quá trình xây dựng trung tâm KH &CN nông nghiệp cao phải được coi là một bộ phận cấu thành của chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Nó đòi hỏi phải có một chương trình nghiên cứu, quy hoạch tổng thể, toàn diện, thống nhất trên phạm vi cả nước về chương trình phát triển các trung tâm KH &CN nông nghiệp cao. Để phát huy được tiềm lực KH &CN nông nghiệp của nước ta cũng như tiếp thu thành quả KH &CN tiên tiến của thế giới cần thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan của Chính phủ, các viện, trường, trung tâm nghiên cứu và các nhà sản xuất, cùng với việc mở rộng quan hệ hợp tác, đầu tư về KH &CN, vốn, kinh nghiệm quản lý với các nước trong khu vực và trên thế giới.
TS Phạm Hữu Nhượng - Phó Giám đốc Ban quản lý Khu NNCNC thành phố Hồ Chí Minh:
Với mong muốn phát triển nhanh các khu NNCNC và các mô hình sản xuất NNCNC, chúng tôi đề nghị:
Thứ nhất, nhanh chóng nghiên cứu đưa ra cơ chế, chính sách đối với khu NNCNC sao cho phù hợp với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp. Những chính sách này cần được ưu đãi cao hơn so với công nghệ cao trong lĩnh vực công nghiệp đã ban hành (Quyết định 53/2004/QĐ-TTg ngày 5.4.2004 của Thủ tướng Chính phủ).
Thứ hai, Nhà nước cần nhanh chóng ban hành tiêu chí khu NNCNC để áp dụng chung cho cả nước.
Thứ ba, Nhà nước cần quy hoạch và có chiến lược phát triển các khu NNCNC đối với các vùng trong nước sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của các địa phương, tránh tình trạng làm theo phong trào đang hình thành một cách tự phát như hiện nay.
TS Dương Kì Trường - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Thiết bị Nông nghiệp, Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc:
Việc xây dựng khu NNCNC ở Trung Quốc sẽ được thực hiện theo phương châm: Chính phủ hướng dẫn, xí nghiệp vận hành, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, nông dân hưởng thụ lợi ích. Cơ chế vận hành sẽ được phân công rõ rệt, chức trách minh bạch, vận hành với hiệu quả cao. Chức trách chủ yếu của Chính phủ là sáng tạo môi trường chính sách thuận lợi, thực hiện việc chỉ đạo vĩ mô và điều hoà phối hợp, tiến hành kiểm soát xí nghiệp, bảo đảm lợi ích cho người nông dân... để khu phát triển bền vững. Xí nghiệp, với tư cách là chủ thể pháp nhân, tự chủ kinh doanh, tiếp thu sự chỉ đạo của Chính phủ. Các tổ chức trung gian triển khai tốt việc tư vấn, đánh giá, bồi dưỡng và cung cấp các loại dịch vụ trung gian về KH &CN. Nông dân dùng đất đai, sức lao động, tiền vốn… để góp cổ phần hoặc thông qua hình thức hợp đồng bao tiêu sản phẩm ký với xí nghiệp để tham gia xây dựng khu, tiếp thu chỉ đạo kỹ thuật và bồi dưỡng kỹ thuật. Các tổ chức nghiên cứu thông qua việc chuyển giao công nghệ hoặc dùng công nghệ để tham gia đóng góp cổ phần hoặc xây dựng xí nghiệp KH &CN, thúc đẩy sản nghiệp hoá các kết quả KH &CN.
(Theo Tạp chí Hoạt động Khoa học)