Kinh nghiệm của một số nước về phát triển ngành chè

15/11/2011

Việt Nam là một trong 5 quốc gia sản xuất chè lớn nhất thế giới. Hiện cả nước có 131.487 ha chè, sản lượng gần 824 nghìn tấn búp tươi. Trà Việt Nam được xuất khẩu sang 110 quốc gia và vùng lãnh thổ, giá trị xuất khẩu đạt gần 200 triệu USD/năm.

Những cổ vật dùng để uống trà cho thấy văn hoá uống trà ở Việt Nam đã có từ lâu đời
Sản xuất chè ở Việt Nam có nhiều lợi thế như đa dạng và phong phú về nguồn giống, đất đai khí hậu phù hợp, nhiều mô hình năng suất cao; nhiều vùng chè chất lượng cao như Tân Cương (Thái Nguyên), Mộc Châu (Sơn La), Bảo Lộc (Lâm Đồng). Các giống chè shan bản địa cho năng suất cao, chất lượng tốt có thể chế biến thành những sản phẩm đa dạng như chè vàng, phổ nhĩ và sản xuất chè hữu cơ giá trị cao. Mặt khác, cây chè cũng đã giải quyết việc làm cho 400.000 hộ sản xuất của 35 tỉnh.
Tuy năng suất chè Việt Nam đã đạt mức bình quân của thế giới, nhưng giá bán thấp, chỉ bằng 60-70% giá bình quân trên thế giới. Nguyên nhân chủ yếu là do sản phẩm chè của Việt Nam còn nghèo nàn về chủng loại, chất lượng, mẫu mã chưa hấp dẫn nên sức cạnh tranh thấp; giữa chế biến và sản xuất nguyên liệu chưa gắn kết với nhau…
Để ngành chè khắc phục được những tồn tại yếu kém, đưa ngành chè Việt Nam phát triển mạnh mẽ hơn nữa, nâng cao năng suất, đóng góp thiết thực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo và sự phát triển chung của đất nước, việc tìm hiểu kinh nghiệm sản xuất chè của nước ngoài là việc làm cần thiết. Tại Hội thảo Quốc tế chè Thái Nguyên 2011 trong khuôn khổ Liên hoan Trà Quốc tế lần thứ nhất - Thái Nguyên, Việt Nam 2011, đại diện nhiều quốc gia đã chia sẻ kinh nghiệp phát triển ngành chè của họ.
Ở Trung Quốc, có 1.200 loại danh trà, chủng loại đa dạng. Sản lượng chè ngon chiếm khoảng 40% tổng sản lượng chè, nhưng giá trị sản lượng loại chè này chiếm tới 70% tổng giá trị sản lượng. Để đạt được kết quả đó, từ khi tiến hành cải cách mở đến nay, chính phủ Trung Quốc rất chú trọng phát triển cây chè, điều này đã làm cho chè của Trung Quốc không ngừng tăng mạnh, chủ yếu thể hiện ở một số điểm sau: sản xuất chè được quán triệt thực hiện phương châm phát triển “một ổn định, ba nâng cao” - tức là ổn định diện tích, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sản lượng trên một đơn vị canh tác; nỗ lực mở rộng và xây dựng vườn chè tiêu chuẩn dẫn đến mở rộng nhân giống hệ vô tính cây chè tốt và cải tạo vườn chè già cỗi và kỹ thuật phòng trừ sâu bệnh tổng hợp bằng chất không có độc như vật lý, sinh vật, tăng cường hơn nữa sự an toàn tin cậy của cơ sở sản xuất chè và nỗ lực nâng cao trình độ sản xuất, chất lượng chè của Trung Quốc, dần hoà nhập với quốc tế; ứng dụng khoa học kỹ thuật để thúc đẩy nâng cấp ngành sản xuất chè, mở rộng phát triển quảng bá kỹ thuật chăm sóc, kỹ thuật sản xuất chè, cơ giới hoá máy móc chế biến gia công chè và kỹ thuật sản xuất tự động hoá và gia công chè; tăng cường giám sát chất lượng, định kỳ kiểm tra đối với thị trường chè; nâng cao nhận thức nhãn hiệu của doanh nghiệp, tăng cường nhãn hiệu hàng hoá, nâng cao sức cạnh tranh; thông qua việc tăng cường tuyên truyền văn hoá chè và tác dụng của chè đối với sức khoẻ, bao gồm phát triển mạnh mẽ triển lãm chè trên toàn quốc để nâng cao nhận thức cho người dân một cách hiệu quả về tác dụng uống chè sẽ có lợi cho sức khoẻ từ đó làm cho mọi người thích uống chè, và như vậy khả năng tiêu thụ chè sẽ không ngừng nâng lên.
Malaysia cũng là một quốc gia thành công trong sản xuất chè. Để đẩy mạnh phát triển ngành chè, năm 1955, Hiệp hội Thương mại trà Malaysia được thành lập. Hiệp hội được thành lập với mục đích phấn đấu bảo vệ lợi ích chung hợp pháp của các thành viên, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của thương mại chè và giải quyết các vấn đề mà ngành công nghiệp đang phải đối mặt. Hiện nay, Hiệp hội có khoảng 100 thành viên phân phối trên toàn Malaysia.
Để nâng cao hiệu quả sản xuất chè, Malaysia đẩy mạnh khuyến khích người dân của các dân tộc uống trà bằng cách tư vấn cho mọi người cố gắng sử dụng những loại trà có lợi cho sức khoẻ; tổ chức các hoạt động liên quan đến trà trên cơ sở có sự phối hợp với các thương gia trà để giúp người dân hiểu rõ hơn về hiệu quả của trà và lợi ích của việc uống trà. Malaysia cũng hướng tới hỗ trợ các thương gia trà về mặt tài chính để giúp họ vượt qua những khó khăn, hạn chế và hỗ trợ họ quảng bá thương hiệu của riêng họ. Điều này đã giúp họ dễ dàng xâm nhập vào được thị trường quốc tế và tăng thu nhập ngoại tệ cho Malaysia. Malaysia cũng đẩy mạnh các hoạt động triển lãm chè quốc tế hoặc tổ chức các chuyến đi thăm quan triển lãm chè quốc tế nhằm mục đích tương tác với các thương gia chè quốc tế để thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp chè. Điểm đáng chú ý, để nâng cao cấp bậc thương hiệu quốc tế quan điểm của ngành chè Malaysia là không tự mãn hay bảo thủ đối với sản phẩm chè và hình dáng, đóng gói là một phần không thể thiếu để nâng cao thương hiệu sản phẩm. Ra sức tìm hiểu về thương hiệu quốc tế cũng như những công nghệ tiên tiến trên thế giới để rút kinh nghiệm hay ứng dụng để khắc phục những điểm yếu còn hiện hữu của ngành chè Malaysia…
Có thể thấy, Liên hoan Trà Quốc tế lần thứ nhất - Thái Nguyên, Việt Nam 2011 được tổ chức là một hoạt động hướng tới đẩy mạnh giới thiệu, quảng bá các sản phẩm trà Việt Nam. Hoạt động này đã đánh dấu bước phát triển quan trọng trong hoạt động xúc tiến thương mại. Cũng qua hoạt động này, việc tham khảo kinh nghiệm phát triển ngành chè của nhiều nước thành công trong sản xuất chè là những gợi ý quan trọng để ngành chè Việt Nam tiếp tục phát triển.
Theo Báo Điện tử Đảng Cộng sản

Nguồn:http://dangcongsan.vn/CPV/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30066&cn_id=490144


Tin khác