Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng lâu dài của Đảng và nhân dân ta

01/03/2011

TCCS - Trong lãnh đạo cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta luôn coi trọng xây dựng nông thôn. Nhưng với Nghị quyết số 26-NĐ/TW và Bộ tiêu chí do Thủ tướng Chính phủ ban hành, vấn đề xây dựng nông thôn mới lần đầu tiên được đề cập một cách cơ bản, toàn diện và sâu sắc, đáp ứng mong muốn của nhân dân và yêu cầu chiến lược xây dựng đất nước cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Trong xu thế phát triển hiện nay, không thể có một nước công nghiệp nếu nông nghiệp, nông thôn còn lạc hậu và đời sống nông dân còn thấp. Vì vậy, xây dựng nông thôn mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05-8-2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn với mục tiêu: "Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường".
Về mục tiêu cụ thể, đến năm 2015: 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới và đến năm 2020: 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (theo 19 tiêu chí được Thủ tướng Chính phủ cụ thể hóa tại Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16-4-2009) trên tổng số 9.121 xã hiện nay của cả nước ta.
Để đạt được mục tiêu nêu trên, trước hết chúng ta cần thống nhất nhận thức về nội dung chức năng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam.
I - Nội dung, chức năng nông thôn mới XHCN Việt Nam
1.1- Nội dung nông thôn và nông thôn mới XHCN Việt Nam.
Đến nay, nội dung này được thống nhất với những quy định tại Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cụ thể: "Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân xã".
Như vậy, nông thôn mới trước tiên phải là nông thôn, không phải là thị tứ, thị trấn, thị xã, thành phố và khác với nông thôn truyền thống hiện nay, có thể khái quát gọn theo năm nội dung cơ bản sau: Nông thôn là làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại; Sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; Đời sống về vật chất và tinh thần của người dân nông thôn ngày càng được nâng cao; Bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát triển; Xã hội nông thôn an ninh tốt, quản lý dân chủ.
1.2- Chức năng nông thôn mới.
a) Chức năng vốn có của nông thôn là sản xuất nông nghiệp: Nông thôn mới phải là nơi sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp có năng suất, chất lượng cao theo hướng sản xuất hàng hóa, không phải là tự cung, tự cấp, phát huy được đặc sắc của địa phương (đặc sản). Đồng thời với việc này là phát triển sản xuất ngành nghề, trước hết là ngành nghề truyền thống của địa phương. Sản phẩm ngành nghề vừa chứa đựng yếu tố văn hóa vật thể và phi vật thể của từng làng quê Việt Nam, vừa tạo việc làm, tăng thu nhập cho cư dân nông thôn...
b) Chức năng giữ gìn văn hóa truyền thống dân tộc: Bản sắc văn hóa làng quê cũng đồng nghĩa với bản sắc từng dân tộc, giữ gìn nó là giữ gìn văn hóa truyền thống đa dạng của các dân tộc, của từng quốc gia. Làng quê nông thôn Việt Nam khác so với các nước xung quanh, ngay cả ở Việt Nam, làng quê dân tộc Thái khác với các dân tộc Mông, Ê-đê, Ba-na, Kinh... Nếu quá trình xây dựng nông thôn mới làm phá vỡ chức năng này là đi ngược lại với lòng dân và làm xóa nhòa truyền thống văn hóa muôn đời của người Việt.
c) Chức năng bảo đảm môi trường sinh thái. Nếu như nền văn minh công nghiệp phá vỡ mối quan hệ hài hòa vốn có giữa con người và thiên nhiên, thì sản xuất nông nghiệp lại mang chức năng phục vụ hệ thống sinh thái. Từ vườn cây, ao cá, cánh đồng lúa bát ngát mênh mông, trang trại cà phê, tiêu..., hệ thống tưới tiêu, hồ đập thủy lợi cho đến bờ dậu... làm cho con người gần gũi, gắn chặt với thiên nhiên.
Một thực tế hiện nay ở nước ta là nhiều làng quê cũng đã dần gạch hóa, bê tông hóa, đang phố hóa, từng ngày phá vỡ đi môi trường sinh thái. Đã đến lúc chúng ta phải lấy chức năng bảo vệ môi trường sinh thái làm thước đo cho sự hoàn thiện mô hình nông thôn mới ở Việt Nam.
II - Biện pháp thực hiện các giải pháp của Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới
Trong Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới, Chính phủ quyết định 7 giải pháp chủ yếu để thực hiện 11 nội dung mà Chương trình mục tiêu quốc gia đề ra nhằm đạt mục tiêu cụ thể từ nay đến năm 2015: 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới và đến 2020: 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (theo bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới mà Chính phủ đã ban hành). Dưới đây là một số điểm cần lưu ý khi thực hiện các giải pháp để xây dựng nông thôn mới.
2.1- Trong quá trình tổ chức cuộc vận động xã hội về xây dựng nông thôn mới, phải nhận thức được vị thế chủ thể của người nông dân (bao gồm cả vị thế chính trị, kinh tế). Đây là nhóm dân số đông nhất hiện nay ở nước ta, nông dân đã cùng với giai cấp công nhân Việt Nam đi suốt chiều dài lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng hiện tại đang gặp nhiều khó khăn trong đời sống kinh tế - văn hóa - tinh thần và nền dân trí chung còn thấp so với người dân thành thị.
Theo đó, nông thôn là khu vực rộng lớn nhất, đa dạng cư dân, đa dạng văn hóa truyền thống (kể cả tập tục lạc hậu), kết cấu hạ tầng lạc hậu..., môi trường sinh thái đang bị hủy hoại nghiêm trọng. Vì vậy, cần có cách tổ chức, vận động phù hợp.
2.2- Quyết định lựa chọn một cách khoa học, sát thực tế với từng địa phương những nội dung, việc cần ưu tiên làm trước. Trong đó, kiên trì quy hoạch, bổ sung quy hoạch lại nông thôn theo tiêu chí nông thôn mới. Quy hoạch phải đi trước một bước. Từ quy hoạch tổng thể, phân khu chức năng đến quy hoạch chi tiết, phải tôn trọng quá trình tích lũy nhiều đời quy hoạch làng quê Việt Nam. Hạn chế tối đa gây xáo trộn, tốn kém gây tâm lý không tốt, không thiết thực khi làm quy hoạch, hoặc gây ảo tưởng trong dân. Việc đầu tư kết cấu hạ tầng trong quá trình xây dựng nông thôn mới chỉ thực hiện khi quy hoạch được phê duyệt.
2.3- Kiên trì, lâu dài hỗ trợ nông dân về khoa học - kỹ thuật, ứng dụng tiến bộ khoa học vào nông nghiệp, nông thôn. Nông dân chịu quá nhiều thiệt thòi về điều kiện tiếp cận thông tin, khoa học - kỹ thuật mới, không đủ lực (kể cả vốn và trình độ học vấn) để ứng dụng khoa học - kỹ thuật. Việc ứng dụng kỹ thuật mới phải thực tế, phải đi từ thấp lên cao. Khuyến nông là một giải pháp rất hữu hiệu ở nước ta và theo kinh nghiệm quốc tế.
2.4- Đầu tư từ nhiều nguồn cho nông thôn. Hạ tầng và công trình phúc lợi công cộng do Nhà nước đầu tư 100% (hiện nay Chính phủ quyết định 7 hạng mục công trình "cứng"), tạo sự thay đổi bộ mặt nông thôn. Nhưng về lâu dài đòi hỏi phải có chính sách thu hút sự đầu tư của doanh nghiệp về với nông thôn.
Hiện nay, doanh nghiệp “đứng chân” ở nông thôn quá ít, chính sách giảm bớt rủi ro cho người nông dân trong sản xuất nông, lâm, thủy sản quá thiếu, doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này hiệu quả cũng thấp và thiếu ổn định, thường đẩy rủi ro về phía người sản xuất. Cần được xử lý tốt các mối quan hệ nhằm thu hút doanh nghiệp về nông thôn, đó là cách tốt nhất để huy động nguồn lực và là cầu nối Nông dân - Doanh nghiệp - Thị trường.
Nếu sự phát triển sản xuất của cư dân nông thôn gắn kết với doanh nghiệp tại nông thôn, theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp, đó là cách tốt nhất không chỉ là huy động nguồn lực, mà còn là cách "dẫn dắt nông dân ra thị trường" khắc phục được kiểu đưa thị trường về nông thôn - "thả nổi nông dân trong cơ chế thị trường". Mặt khác, tạo cơ hội cho cư dân nông thôn tham gia đầu tư không chỉ cho sản xuất của chính mình, mà cả phúc lợi công cộng do chính mình được hưởng.
2.5- Hình thành "giá đỡ" để nông dân yên tâm sản xuất sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp.
a) Chính phủ đã có quyết định về an ninh lương thực quốc gia, cũng có nghĩa là phải ổn định lâu dài 3,7 triệu héc-ta đất trồng lúa. Ngoài quy định về việc giá mua lúa phải bảo đảm 30% - 40% lợi nhuận cho nông dân trên giá thành, cần có chính sách bảo hiểm khác để nông dân yên tâm trồng lúa, nhất là rủi ro do thời tiết, thiên tai, dịch bệnh.
Sản xuất lúa ở nước ta không chỉ bảo đảm lương thực trong nước mà còn góp phần giữ vững an ninh lương thực quốc tế, nâng vị thế quốc gia Việt Nam trên thị trường quốc tế. Việt Nam đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu gạo lợi nhuận khá lớn, nhưng đời sống người trồng lúa rất bấp bênh, thu nhập đang ở mức dưới 20 triệu đồng/ha. Những tỉnh chủ yếu trồng lúa (Đồng bằng Bắc Bộ, đồng bằng sông Cửu Long) băn khoăn khi phải giữ ổn định đất lúa, không được chuyển sang mục đích khác dù hiệu quả trên một héc-ta cao hơn nhiều, như phát triển khu đô thị, khu công nghiệp,... Chính sách bảo hiểm và cơ chế tài chính quốc gia cần giải quyết thấu đáo vấn đề này.
b) Bảo hiểm cho người nông dân thực hiện thu hồi đất: Nghị định số 69/2009/NĐ-CP, ngày 13-8-2009 của Chính phủ đã giải quyết tương đối tốt vấn đề đền bù (bằng tiền) cho nông dân khi thu hồi đất và các chính sách hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề khác. Song, thực tế chuyển đổi việc làm cho người nông dân rất phức tạp, nhất là khi các doanh nghiệp mà họ vào làm việc gặp khó khăn, thì họ phải tự lo lấy nghề. Cần tiếp tục nghiên cứu để có chính sách riêng cho đối tượng này, nhất là bảo hiểm cho người lập nghiệp mới.
c) Bảo hiểm cây trồng, vật nuôi: Lựa chọn một số cây trồng, vật nuôi đã là sản phẩm hàng hóa ở quy mô lớn, theo vùng để đưa vào chính sách bảo hiểm, vừa bảo đảm ổn định bền vững thu nhập cho cư dân nông thôn, doanh nghiệp, vừa tạo thế cho những sản phẩm hàng hóa của Việt Nam đã có vị thế quốc gia (như đã nêu trên).
d) Xây dựng hệ thống bảo hiểm cho người nông dân khi quá tuổi lao động theo nguyên tắc: người dân hưởng thụ bảo hiểm; tập thể, doanh nghiệp sử dụng hoặc là hợp tác xã (HTX) sản xuất sản phẩm nông nghiệp; ngân sách nhà nước cùng tham gia để khi người dân quá tuổi lao động có "tiền hưu", có thể gọi là "hưu nông dân".
2.6- Tạo môi trường tốt nhất cho các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với trình độ cư dân từng xã, làng, từng loại hình sản phẩm cây trồng, vật nuôi, làng nghề..., tính chất sản phẩm của từng dân tộc với mục tiêu tạo ra sản phẩm hàng hóa có giá trị cao, tăng thu nhập cho cư dân nông thôn.
Kinh tế hộ, trang trại, tổ hợp tác, HTX, doanh nghiệp vừa và nhỏ đều nằm trong khuôn khổ của chính sách đó và Chính phủ chỉ nên khuyến khích, hướng cho người dân tự lựa chọn, không áp đặt.
Một số hình thức tổ chức sản xuất mới đã hình thành ở nước ta:
a) Nông dân góp vốn bằng đất vào doanh nghiệp, có thể họ trở thành công nhân làm việc trong doanh nghiệp trên chính mảnh đất của mình. (Công ty Cao su Sơn La, Lai Châu là những ví dụ điển hình), có thể họ chỉ là cổ đông hưởng cổ tức và chuyển làm việc khác. Chính phủ cần có chính sách để đất trở thành nguồn lực làm giàu lâu dài cho người nông dân.
b) Nông dân tham gia mua cổ phần tại các doanh nghiệp đóng trên địa bàn, các công trình kinh tế lớn quốc gia, nhất là thủy điện. Đối với cư dân nông thôn khi phải bỏ quê quán đến nơi mới lập quê, lập nghiệp cần có chính sách cho họ được hưởng thụ lợi ích trực tiếp từ hiệu quả các công trình kinh tế mà họ đã đóng góp xây dựng nên. Hoặc là dành một khoản cổ phiếu thưởng (không chuyển nhượng) để họ được hưởng cổ tức lâu dài tại các doanh nghiệp đó.
c) Công ty cổ phần mà cổ đông là các HTX, các chủ trang trại, các tổ hợp tác (theo cách là nhóm cổ đông), hộ nông dân; không chỉ dịch vụ đầu vào, đầu ra, mà ngay cả trong sản xuất hàng hóa, nhất là sản phẩm từ làng nghề, chế biến nông, lâm, thủy sản, vùng sản xuất hàng hóa chất lượng cao, không giới hạn địa lý hành chính xã, huyện,... Chính phủ có chính sách hỗ trợ và bảo hiểm cho các loại hình mới hoạt động có hiệu quả, phát triển.
2.7- Củng cố, xây dựng các tổ chức xã hội vì lợi ích trực tiếp của chính cư dân nông thôn.
Cùng với việc ra sức kiện toàn các cấp ủy đảng, chính quyền xã là việc tổ chức lại các hội, đoàn thể của dân thực sự là tổ chức của họ, đại diện cho họ giám sát các hoạt động của các cấp chính quyền, tổ chức đảng, bảo đảm nguyên tắc dân chủ, công khai trong thôn, xã, giúp họ định hướng phát triển sản xuất, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tình làng nghĩa xóm, bảo đảm an ninh trong làng xã; giúp nhau và thi đua làm giàu chính đáng.
III - Một số nội dung cần có quyết tâm, nguồn lực và thời gian để thực hiện
3.1- Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại là nội dung vừa có tính bức xúc trước mắt, vừa có tính lâu dài.
Chính phủ đang tập trung chỉ đạo để công tác quy hoạch nông thôn hoàn thành vào cuối năm 2011, 100% số xã sẽ hoàn thành quy hoạch, đây là việc làm cần ưu tiên đi trước, và vì lợi ích lâu dài của người dân, của các địa phương. Nhưng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn Việt Nam chắc chắn là công việc lâu dài.
Trong tổng số 9.121 xã của cả nước (thống kê năm 2009), thì:
+ Vùng đồng bằng sông Hồng có 1.955 xã thuộc 11 tỉnh, đây là vùng phát triển sớm, dân trí cao, hơn 50 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã có khá nhiều thành công; hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn tương đối khá hơn so với cả nước. Nếu làm tốt cuộc vận động chung tay xây dựng nông thôn mới, Nhà nước và nhân dân cùng làm thì có thể về đích sớm trong 10 - 15 năm tới, có tỉnh đạt sớm hơn, ví dụ như Thái Bình có 267 xã, nếu có nguồn lực từ ngân sách nhà nước hỗ trợ thêm cho các xã, thì trong 5 năm sẽ đạt hầu hết 19 tiêu chí. Riêng kết cấu hạ tầng 100% số xã sẽ hoàn thành. Đây là tỉnh đi đầu cả nước về xây dựng hạ tầng nông thôn.
+ Vùng Đông Nam Bộ có 490 xã thuộc 6 tỉnh, tuy có một số khó khăn ở những xã vùng sâu, vùng xa, song nếu biết khơi dậy tiềm năng và lựa chọn phương án đầu tư hợp lý thì cũng có khả năng về đích sớm trong vòng 10 - 15 năm.
+ Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có 2.489 xã thuộc 14 tỉnh; vùng trung du, miền núi phía Bắc có 2.283 xã thuộc 14 tỉnh; vùng Tây Nguyên có 598 xã thuộc 5 tỉnh; đồng bằng sông Cửu Long có 1.306 xã thuộc 13 tỉnh. Bốn vùng này có tổng số 8.676 xã, hầu hết đều rất khó khăn. Trong đó, đặc biệt có 1.834 xã thuộc diện Chương trình 135; 271 xã bãi ngang; 797 xã trong vùng 62 huyện nghèo (Nghị quyết số 30a của Chính phủ) kết cấu hạ tầng rất thấp kém. Cần phải đầu tư rất lớn và rất nhiều thời gian mới có thể xây dựng được, không thể 10 năm, 20 năm mà phải lâu dài hơn nữa.
3.2- Chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông thôn là công việc lâu dài, gian khó
Hiện nay, cả nước ta có 15.570.642 hộ sống ở nông thôn, chiếm 69,4% hộ với 37.960.031 lao động, chiếm 69% lao động cả nước, trong đó lao động làm việc trực tiếp trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản chiếm 51,9% lao động cả nước. Mục tiêu của chúng ta là đến 2020 lao động làm nông nghiệp giảm xuống còn 30%.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1956/QĐ-TTg, ngày 27-11-2009 về Chương trình đào tạo cho lao động nông thôn. Theo đó, hằng năm chúng ta tập trung đào tạo chuyển nghề cho lao động nông thôn từ 700.000 - 800.000 người và 300.000 nông dân tiếp tục làm nông nghiệp. Trường lớp đào tạo hiện còn chưa đáp ứng, cái khó hơn là đào tạo lao động phi nông nghiệp có việc làm và thu nhập ổn định, cao hơn làm nông nghiệp.
Theo dự tính, lao động sau đào tạo chủ yếu làm việc tại các doanh nghiệp, có thể ở thành phố, đô thị nhỏ, tuy nhiên trên thực tế khả năng này không dễ. Làm việc trong doanh nghiệp ở nông thôn và đầu tư vào nông nghiệp đang là thách thức lớn. Thực tế hiện nay ở nước ta mới có 39.414 doanh nghiệp hoạt động ở nông thôn, trong số đó chỉ có 1.454 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản, chiếm 3,7% số doanh nghiệp hoạt động ở nông thôn. Với số vốn đầu tư có 32 nghìn tỉ đồng, chiếm 6% vốn của các doanh nghiệp đầu tư ở nông thôn và chỉ có 0,9% vốn của các doanh nghiệp trong nước. Vì vậy, Chính phủ đã có Nghị định số 61/2010/NĐ-CP, ngày 04-6-2010 về Chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Cần phải coi việc đào tạo chuyển nghề cho lao động nông thôn và gắn đào tạo chuyển nghề với doanh nghiệp là công việc thường xuyên, lâu dài.
3.3- Tăng thu nhập gấp 2 - 3 lần hiện nay và nâng cao đời sống tinh thần cho cư dân nông thôn là việc làm lâu dài.
Thực tế hiện nay, thu nhập của cư dân nông thôn bình quân năm bằng 76,6% bình quân chung cả nước và chỉ bằng 47,5% thu nhập của cư dân đô thị; có tới 84,5% hộ nghèo (trong tổng số hộ nghèo cả nước) sống ở nông thôn (nếu tính theo chuẩn mới tỷ lệ đó còn cao hơn nữa). Mặt khác, do sản xuất nông nghiệp mang tính rủi ro cao, nên nguy cơ các hộ từ cận nghèo trở thành hộ nghèo rất cao, hoặc hộ đã thoát nghèo, nhưng nếu chỉ gặp rủi ro như trong năm gia đình có người ốm, lợn gà bị dịch bệnh,... lại trở về hộ nghèo.
Bình quân mỗi hộ nông dân Việt Nam chỉ có 1,61 ha; trong đó: Đồng bằng sông Hồng 0,35 ha/hộ, Trung du miền núi phía Bắc 2,98 ha/hộ; Bắc Trung Bộ 1,76 ha/hộ, Duyên hải miền Trung 2,13 ha/hộ, Tây Nguyên 5,63 ha/hộ, Đông Nam Bộ 1,2 ha/hộ, Đồng bằng sông Cửu Long 1,03 ha/hộ. Với số diện tích đó, nếu không chuyển dịch được cơ cấu lao động, không đưa nhanh được ngành nghề vào nông thôn thì dù có tăng năng suất, tổ chức lại sản xuất, dồn điền đổi thửa cũng khó giàu, mà tất cả các công việc làm trên đều không thể một sớm một chiều hoặc là theo kiểu "phong trào" được.
3.4- Tổ chức lại sản xuất gắn với tổ chức lại và tạo lập mới những tổ chức chính trị - xã hội phù hợp với trình độ phát triển của cư dân nông thôn còn gặp nhiều khó khăn và mang tính lâu dài.
Trước thời kỳ đổi mới, chúng ta chủ yếu và nặng về hình thức HTX trong nông nghiệp - nông thôn. Trong hơn 25 năm đổi mới chúng ta đang chuyển dần sang HTX kiểu mới, khẳng định vai trò kinh tế hộ, khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Song đi theo đó là các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội vẫn chưa chuyển đổi kịp và đang bị hành chính hóa, các tổ chức có tính hội nghề nghiệp chưa phát triển kịp, chưa có vai trò trong xã hội. Vì vậy, các tổ chức đó chưa tạo động lực cho các loại hình sản xuất phát triển nhanh, mạnh trong kinh tế thị trường và đang bị chi phối quá nhiều vào các cấp hành chính.
3.5- Tập trung giải quyết những mâu thuẫn lớn ở nông thôn, vừa giải quyết những vấn đề trước mắt, vừa là vấn đề chiến lược xây dựng bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Trong quá trình xây dựng nông thôn mới chúng ta đang gặp phải 2 mâu thuẫn lớn: Một là, mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ với thị trường lớn đang quốc tế hóa nhanh; Hai là, mâu thuẫn giữa hiệu quả sản xuất thấp với rủi ro cao.
Ngoài những mâu thuẫn lớn trên, còn nhiều mâu thuẫn thường gặp, như: vấn đề thu hồi đất, đền bù giải phóng mặt bằng, đất đai nhà ở, v.v.. Bài viết này muốn đề cập đến mâu thuẫn có tính chất chiều sâu ở nông thôn.
a) Trước hết là mâu thuẫn về lợi ích và xử lý mối quan hệ kinh tế giữa chính quyền và cư dân nông thôn. Đảng ta khẳng định Nhà nước là của dân, do dân, vì dân; nhưng thực tế hiện nay mong muốn đó của Đảng ta chưa được trọn vẹn, không ít xã đã nổi lên "nhóm lợi ích" khó hiểu, đã tạo ra mâu thuẫn ngầm về kinh tế trong nông thôn. Mặt khác, cơ cấu cư dân nông thôn rất đa dạng, chênh lệch khá xa về kiến thức xã hội, văn hóa. Số đông là nông dân có trình độ, đời sống vật chất, tinh thần thấp đang gặp nhiều khó khăn, bức xúc; cán bộ hưu trí, quân nhân phục viên, giáo viên, đội ngũ công chức xã đang có nhiều tâm tư khác nhau, và đang nổi lên nhiều mâu thuẫn phức tạp trong nông thôn.
b) Mâu thuẫn giữa thói quen điều hành theo mệnh lệnh hành chính, các quyết định hành chính, kế hoạch tập trung và các "thủ đoạn" hành chính can thiệp vào sản xuất kinh doanh, không ít địa phương lại thiếu tôn trọng các cam kết của chính quyền khóa trước với doanh nghiệp khiến cho nhiều định hướng sản xuất theo kinh tế thị trường bị phá vỡ, hoặc phải hành xử theo "luật đi đêm", không dễ cải cách.
c) Mâu thuẫn giữa chính sách của Đảng, Nhà nước về hỗ trợ nông dân với thực tiễn tổ chức thực hiện. Nhiều nghị quyết, chính sách rất hay, rất toàn diện nhưng không được triển khai, thực hiện nghiêm túc và không đến được với dân.
3.6- Xây dựng người nông dân mới - chủ thể của nông thôn là hạt nhân để xây dựng nông thôn mới.
Tám mươi năm qua, Đảng ta đã rất quan tâm đến xây dựng giai cấp nông dân, xây dựng con người mới XHCN. Chặng đường dài ấy liên minh công - nông đã được tăng cường. Song, cùng với sự phát triển hiện đại hóa, công nghiệp hóa theo kinh tế thị trường, giai cấp công nhân có bước đi nhanh hơn, kịp mở rộng tổ chức giai cấp của mình; còn nông dân vẫn loay xoay có nhiều bước tiến, cũng có nhiều bước lùi. Để người nông dân là chủ thực sự, Đảng, Nhà nước cần tôn trọng và lấy quyền lợi của nông dân làm hạt nhân để đưa ra các chính sách trong giải quyết các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
Theo đó, cùng với việc làm rõ nhận thức từ Trung ương (từ lãnh đạo đến cán bộ tham mưu) đến địa phương (cán bộ cơ sở) về trách nhiệm đối với nông dân, nông thôn, phải tăng cường sự lãnh đạo và tập trung nhân tài, vật lực cho xây dựng nông thôn mới./.
Hồ Xuân Hùng
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Agroinfo - Theo Tạp chí Cộng sản

Nguồn: http://www.tapchicongsan.org.vn/details.aspx?Object=4&news_ID=8260025


Tin khác