Bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam và vấn đề đặt ra

04/10/2011

Nông nghiệp, nông thôn có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt đến an ninh chính trị, kinh tế - xã hội Việt Nam. Đảng và Nhà nước đã xác định dịch vụ sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp mang tính chất là dịch vụ (hàng hoá) công. Được triển khai từ năm 1982, nhưng nhìn chung, kết quả bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam rất hạn chế.

Trong những năm gần đây, Nhà nước đã coi bảo hiểm nông nghiệp như là một bộ phận trong chiến lược phát triển nông thôn. Văn kiện
Cây cao su - một loại cây bảo hiểm của Bảo Việt
Đại hội lần thứ X của Đảng đã nêu: Xây dựng cơ chế bảo hiểm nông sản để chủ động bù đắp thiệt hại khi bị thiên tai hoặc khi giá cả biến động bất lợi, nhất là đối với lương thực. Để phát triển bảo hiểm nông nghiệp, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X) đã yêu cầu: Thí điểm bảo hiểm nông nghiệp, bảo đảm mức sống tối thiểu cho cư dân nông thôn. Để góp phần phát triển nông nghiệp bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, Văn kiện Đại hội XI tiếp tục chỉ rõ: Phát triển các hình thức bảo hiểm phù hợp trong nông nghiệp.
Tuy việc triển khai thực hiện bảo hiểm nông nghiệp đã được tiến hành, nhưng dịch vụ bảo hiểm này ở nước ta mới manh nha. Theo số liệu của Bộ Tài chính, tỷ trọng tham gia bảo hiểm của nông dân rất thấp, chưa tới 1% tổng diện tích cây trồng, vật nuôi. Thực tiễn cho thấy, sau mỗi lần hứng chịu thiên tai, rất nhiều nông dân dễ dàng trở nên trắng tay, trở về với nghèo đói và Chính phủ phải hỗ trợ hàng nghìn tỷ đồng. Mặt khác, các doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh thua lỗ dẫn tới việc không hoạt động hoặc ngừng hoạt động bảo hiểm cây trồng, vật nuôi. Vì vậy, việc hình thành và phát triển bảo hiểm nông nghiệp phù hợp với đặc thù của nông nghiệp, nông thôn và nông dân Việt Nam và tình hình thị trường bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết và cấp bách.
Bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam
Trong số các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ ở Việt Nam, có 2 doanh nghiệp (Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt và Groupama) đã triển khai bảo hiểm nông nghiệp và 2 doanh nghiệp ở dạng tiềm năng (Bảo Minh và Công ty bảo hiểm ngân hàng nông nghiệp).
Tổng công ty bảo hiểm Bảo Việt đã tiến hành bảo hiểm cây lúa, mùa màng tại huyện Vụ Bản (tỉnh Nam Định) từ năm 1982 nhưng không thành công, hiện nay đã dừng hoạt động này (kết thúc năm 1983). Thời gian gần đây, Bảo Việt tiến hành bảo hiểm cây cao su, bạch đàn, vật nuôi (bò sữa), tuy nhiên, tổn thất quá lớn, chi phí cao, hiệu quả thấp.
Từ năm 1993, bảo hiểm mùa màng cũng được triển khai tới các hộ nông dân của 12 tỉnh trong cả nước, bao gồm: An Giang, Bình Định, Bình Thuận, Bắc Giang, Bến Tre, Cà Mau, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hà Tĩnh, Kiên Giang, Sóc Trăng và Vĩnh Long. Kết quả bảo hiểm này chưa thực ý nghĩa vì tổng diện tích được bảo hiểm chỉ chiếm khoảng 1,16% tổng diện tích gieo trồng toàn quốc (năm 1995) và 0,27% (năm 1997).
Rừng và cao su (2 sản phẩm bảo hiểm cây công nghiệp chính của Bảo Việt) cũng được bảo hiểm, nhưng chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với diện tích gieo trồng thực tế. Diện tích cao su được bảo hiểm chỉ chiếm 10% (doanh thu phí bảo hiểm trong 3 năm 1996, 1997 và 1998 là 3,4 tỷ đồng, bồi thường 200 triệu đồng), còn rừng chỉ được bảo hiểm một vùng 20.000ha ở Kiên Giang. Bảo hiểm cây bạch đàn làm nguyên liệu giấy mới được thực hiện cho một dự án liên doanh trồng rừng với 44.000ha trong 2 năm 1997, 1998 với phí bảo hiểm thu được 120.000 USD.
Bảo hiểm vật nuôi trước đây có triển khai một số nơi, nhưng Bảo Việt thấy không hiệu quả nên đã dừng triển khai.
Nhìn chung những năm gần đây, trong bảo hiểm nông nghiệp, Bảo Việt chủ yếu triển khai bảo hiểm nông nghiệp cho hai đối tượng là cây cao su (Bình Phước, Tây Ninh) và bò sữa (Kon Tum). Tuy nhiên, hiệu quả kinh doanh không cao, tỷ lệ bồi thường chiếm trên 80% so với doanh thu phí bảo hiểm, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ bồi thường của các nghiệp vụ bảo hiểm khác của Bảo Việt (tỷ lệ bồi thường 50%).
Cùng với Bảo Việt, Công ty TNHH bảo hiểm tổng hợp Groupama Việt Nam cũng triển khai bảo hiểm nông nghiệp. Groupama là một công ty bảo hiểm của Pháp bắt đầu hoạt động tại Việt Nam năm 2001. Groupama cung cấp các dịch vụ bảo hiểm vật nuôi, cây trồng; bảo hiểm tài sản, thiệt hại dùng trong sản xuất nông nghiệp, bảo hiểm việc cung ứng nguyên vật liệu thiết bị và bao tiêu các sản phẩm nông nghiệp; bảo hiểm tai nạn lao động nông nghiệp và trách nhiệm dân sự trong sản xuất nông nghiệp, bảo hiểm đối với hoạt động nuôi tôm từ năm 2002. Mặc dù là nhà bảo hiểm nông nghiệp lớn và có nhiều kinh nghiệm tại Pháp và trên thế giới, song Groupama không thành công với bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam, doanh thu thấp, bồi thường cao, liên tục lỗ từ khi thành lập đến nay.
Trước đây, Groupama hoạt động chủ yếu tại các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long với việc cung cấp các dịch vụ bảo hiểm vật nuôi, cây trồng; bảo hiểm tài sản, thiệt hại dùng trong sản xuất nông nghiệp, bảo hiểm việc cung ứng nguyên vật liệu thiết bị và bao tiêu các sản phẩm nông nghiệp; bảo hiểm tai nạn lao động nông nghiệp và trách nhiệm dân sự trong sản xuất nông nghiệp từ năm 2002. Groupama cũng đã thử nghiệm cung cấp dịch vụ bảo hiểm đối với các hoạt động ngư nghiệp, chủ yếu là đối với hoạt động nuôi tôm. Tuy nhiên, công ty đã chấm dứt cung cấp dịch vụ này sau một cơn bão gây ra thiệt hại nặng nề. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng doanh thu từ loại hình bảo hiểm nông nghiệp của Groupama cũng không đáng kể, tỷ lệ bồi thường rất lớn (năm 2005 tỷ lệ bồi thường lên tới 4.426%).
Từ năm 2005, công ty này mở rộng địa bàn hoạt động ra ngoài khu vực đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ, đồng thời thu hẹp đối tượng bảo hiểm, theo đó, chỉ bảo hiểm cho vật nuôi (bò và lợn). Doanh thu bảo hiểm nông nghiệp thấp chỉ đạt 11 triệu đồng năm 2007.
Hai doanh nghiệp khác ở dạng tiềm năng, đó là Tổng Công ty cổ phần Bảo Minh và Công ty cổ phần bảo hiểm Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Bảo Minh triển khai bảo hiểm tín dụng khoản vay phục vụ sản xuất nông nghiệp theo chỉ số thời tiết ở Đồng Tháp. Tuy nhiên, do mức phí tương đối cao (khoảng 15% giá trị khoản vay) nên phía ngân hàng cũng không mặn mà lắm. Công ty cổ phần bảo hiểm Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn được phép triển khai bảo hiểm nông nghiệp. Hiện nay, cũng đang nghiên cứu đề án tiền khả thi triển khai bảo hiểm nông nghiệp.
Triển khai bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam còn nhiều hạn chế
Qua phân tích kết quả triển khai bảo hiểm nông nghiệp của Bảo Việt và Groupama cho thấy, kết quả triển khai bảo hiểm nông nghiệp của Việt Nam rất hạn chế. Doanh thu phí bảo hiểm nông nghiệp hàng năm thấp, tỷ trọng doanh thu rất nhỏ so với phí bảo hiểm của toàn thị trường bảo hiểm phi nhân thọ: 0,069% (năm 2004); 0,008% (năm 2005); 0,012% (năm 2006); 0,01% (năm 2007). Việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp không hiệu quả, tỷ lệ bồi thường trên doanh thu cao – trên 80%, nếu tính các chi phí khác của doanh nghiệp bảo hiểm như chi quản lý, chi bán hàng, trích lập dự phòng nghiệp vụ thì kết quả triển khai nghiệp vụ bảo hiểm nông nghiệp bị lỗ.
Như vậy, qua thực tế triển khai bảo hiểm nông nghiệp Việt Nam thời gian qua có thể thấy, diện tích cây có hạt, cây ăn quả, cây công nghiệp lớn, số lượng gia súc, gia cầm rất nhiều, song mới chỉ có một số lượng rất nhỏ cây công nghiệp được bảo hiểm. Việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp không hiệu quả, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đề ra cũng như hỗ trợ nông dân khi xảy ra tổn thất. Cây lúa là cây nông nghiệp có tầm quan trọng hàng đầu, nhưng vào thời điểm hiện tại vẫn chưa được bảo hiểm.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của thị trường bảo hiểm nông nghiệp thời gian qua.
Về phía doanh nghiệp bảo hiểm: Sản phẩm bảo hiểm chưa phù hợp. Phần lớn là các sản phẩm bảo hiểm đa rủi ro, chưa có sản phẩm chuẩn, cụ thể cho một loại đối tượng bảo hiểm, cho một số rủi ro nhất định và triển khai với quy mô rộng khắp. Công tác khai thác bảo hiểm còn nhiều hạn chế. Tập quán sản xuất, nuôi trồng của nông dân manh mún, thiếu các phương pháp nuôi trồng chuẩn trong khi địa bàn sản xuất lại phân bố rất rộng. Số lượng cán bộ ít, trình độ hạn chế (yêu cầu phải rất hiểu biết về cây trồng vật nuôi cũng như kiến thức về bảo hiểm), chi phí khai thác lớn trong khi giá trị bảo hiểm nhỏ, phân tán. Chưa có phương thức quản lý rủi ro hữu hiệu đối với cây trồng vật nuôi được bảo hiểm. Thậm chí còn xuất hiện tâm lý sợ người dân lựa chọn rủi ro đối nghịch hoặc trục lợi trong bảo hiểm nông nghiệp. Trong các loại hình bảo hiểm khác, doanh nghiệp bảo hiểm có thể kiểm soát và hạn chế tổn thất, nhưng trong bảo hiểm nông nghiệp rất khó hạn chế hiện tượng này vì số người được bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm rất lớn và có mặt rộng khắp trên mọi miền đất nước. Công tác giải quyết bồi thường còn chậm, thủ tục còn phiền hà, gây nhiều khó khăn cho người tham gia bảo hiểm dẫn đến tâm lý người dân không muốn tham gia bảo hiểm.
Mặt khác, do tổn thất cao, lợi nhuận thấp nên không thu hút được các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia. Vì là bảo hiểm thương mại nên doanh nghiệp đặt mục tiêu hàng đầu là lợi nhuận. Nhà nước không thể ép doanh nghiệp triển khai sản phẩm này. Do những đặc thù của sản xuất nông nghiệp, chi phí cho bán bảo hiểm lớn, việc kiểm tra, giám định tổn thất và bồi thường gặp khó khăn, trong khi hoa hồng lại thấp so với số phí bảo hiểm thu được... nên không thực sự hấp dẫn đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu tăng phí bảo hiểm tương ứng với rủi ro thì nông dân không có khả năng tham gia; còn nếu giữ phí bảo hiểm ở mức thấp thì không đảm bảo khả năng tài chính cho doanh nghiệp bảo hiểm. Bên cạnh đó, do các doanh nghiệp đều đặt mục tiêu doanh thu và lợi nhuận lên hàng đầu, tiền lương của cán bộ khai thác bảo hiểm cũng được căn cứ trên cơ sở này, do vậy không có cán bộ bảo hiểm nào mặn mà với việc triển khai bảo hiểm nông nghiệp của doanh nghiệp mình.
Năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm có hạn. Rủi ro thiên tai trong bảo hiểm nông nghiệp nhiều khi mang tính chất thảm hoạ do phạm vi, mức độ tàn phá, thiệt hại về mặt tài chính rất lớn vượt quá năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm. Do vậy, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ lựa chọn một số rủi ro và triển khai trên một vài địa bàn hạn chế.
Thị trường tái bảo hiểm chưa phát triển. Chưa có sự hỗ trợ, hậu thuẫn của các nhà tái bảo hiểm, các chương trình tái bảo hiểm cũng như sự phát triển của thị trường tái bảo hiểm, đầu ra rất quan trọng cho các doanh nghiệp bảo hiểm gốc. Vì các rủi ro trong sản xuất nông nghiệp, nên các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải có sự hậu thuẫn của các nhà tái bảo hiểm.
Đối với người nông dân: Người dân chưa có thói quen tham gia bảo hiểm. Dân trí của nông dân còn thấp, tập quán phó mặc cho trời nên chưa chủ động tham gia bảo hiểm, nhằm khắc phục khó khăn tài chính khi xảy ra thiên tai. Thiên tai trong nông nghiệp rất lớn nhiều khi mang tính chất thảm hoạ, mức độ tổn thất khác nhau trong khi đại đa số nông dân nước ta có thu nhập rất thấp do vậy không có khả năng mua bảo hiểm. Sản xuất manh mún, phần lớn kỹ thuật chăm sóc, quy trình sản xuất theo kinh nghiệm và tự phát dẫn đến rất rủi ro và khó đánh giá đối với đối tượng được bảo hiểm. Tâm lý phổ biến là lựa chọn khả năng chắc chắn xảy ra tổn thất mới tham gia bảo hiểm. Ví dụ như: Người dân ở vùng thường xuyên bị lũ lụt mới mua bảo hiểm, hoặc biết vật nuôi có bệnh thì mới mua bảo hiểm, hoặc chỉ mua bảo hiểm cho tài sản sắp hỏng,…
Đối với Nhà nước: Chưa có cơ chế, chính sách cụ thể hỗ trợ chi phí cho nông dân, doanh nghiệp tham gia bảo hiểm nông nghiệp; chưa có cơ chế, chính sách tài chính, bù đắp chi phí cho doanh nghiệp triển khai bảo hiểm nông nghiệp; chưa có chính sách hỗ trợ nông dân tham gia bảo hiểm; Chưa có sự hỗ trợ đắc lực của hệ thống pháp luật (bảo hiểm nông nghiệp chưa được chú trọng, chưa được coi là loại hình bảo hiểm bắt buộc), vai trò của các cơ quan nhà nước có liên quan trong công tác điều tra, nghiên cứu, phân tích dự báo chưa được chú trọng; Chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu để làm căn cứ cho việc tính phí, triển khai bảo hiểm. Sự hợp tác, phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước; các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm, các tổ chức tín dụng, tài chính và người nông dân chưa chặt chẽ nên việc cung cấp đồng bộ các dịch vụ bảo hiểm và tín dụng để thúc đẩy, xúc tiến bảo hiểm nông nghiệp còn hạn chế. Mặt khác, việc Chính phủ vẫn thường xuyên thực hiện việc trợ cấp trong trường hợp xảy ra thiên tai lớn đã làm nảy sinh tư tưởng ỷ lại, làm suy yếu khả năng tham gia bảo hiểm nông nghiệp của người dân.
Để hình thành và phát triển bảo hiểm nông nghiệp ở Việt Nam, trước hết, cần xác định đối tượng bảo hiểm hướng vào một số cây trồng, vật nuôi chủ lực như: Lúa, cà phê, trâu, bò, lợn, gia cầm, tôm, cá và xác định những rủi ro cần được bảo hiểm.... Lựa chọn một số cây trồng, vật nuôi phù hợp với từng vùng làm thí điểm rồi nhân rộng; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nông dân tham gia bảo hiểm cây trồng, vật nuôi thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các đoàn thể quần chúng như hội nông dân, hội khuyến nông, hội phụ nữ; Mở các lớp tập huấn cho nông dân; Hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu, triển khai các loại sản phẩm theo từng vùng, miền, kênh phân phối, đội ngũ giám định và xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ về tài chính, bù đắp chi phí cho doanh nghiệp triển khai bảo hiểm nông nghiệp; Hỗ trợ nông dân tham gia bảo hiểm; Tăng cường sự phối hợp giữa Nhà nước, các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm, các tổ chức tín dụng, tài chính và nông dân.
Theo Báo Điện tử Đảng Cộng sản

Nguồn: http://dangcongsan.vn/CPV/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30066&cn_id=481778


Tin khác