Đồng bằng sông Cửu Long: Nông dân đi thuê ruộng

23/02/2012

Nông dân ở ĐBSCL thuê đất để canh tác đã nhiều năm nay, tạo nên một thị trường thuê mướn đất khá sôi động, từ đó cũng nảy sinh nhiều vấn đề bất cập liên quan tới Luật Đất đai cũng như các chính sách khác.

“Vua khoai lang” Ba Hạo trên đồng đất thuê.
Nghèo thuê ruộng vùng sâu
Anh Nguyễn Văn Sơn (ở ấp Đông Bình, thị trấn Tân Hiệp, Tân Hiệp, Kiên Giang) cho biết, nhà đông anh em nhưng chỉ có đất ở, không có nghề ngỗng gì, muốn làm ruộng thì phải thuê đất. Giá lúa thời gian qua khá cao và ổn định, sản xuất có lãi, vì thế giá đất ncho thuê tăng chóng mặt. Năm 2008 chỉ 28 triệu đồng/ha, năm 2010 lên 35 triệu đồng và hiện 45-50 triệu đồng.
Theo anh, với giá thuê đất như vậy, người trực tiếp làm ruộng chỉ lãi khoảng 400 giạ/ha mỗi năm, tương đương 32 triệu đồng.
Dù giá cho thuê đất ruộng ở Tân Hiệp cao như thế, nhưng anh Sơn không tìm ra đất để thuê. Vì thế, năm nay, hai vợ chồng anh phải đi làm thuê. Nhiều người ở Tân Hiệp không có đất sản xuất, phải tìm đến những vùng đất mới ở vùng Tứ giác Long Xuyên thuộc các huyện Hòn Đất, Kiên Lương, Giang Thành, chấp nhận thuê đất ruộng xấu để làm, thậm chí khai hoang cho chủ đất.
Ông Nguyễn Đào Cảnh (ở phường An Hòa, TP Rạch Giá) xuống xã Bình An, huyện Kiên Lương thuê 5 ha đất với giá 20 triệu đồng/năm. Ông Cảnh nói: “Sở dĩ thuê được đất giá thấp như vậy vì đất cấp cho cán bộ”. Tỉnh Kiên Giang đang có chủ trương những ai được giao, cấp đất nhưng bỏ hoang thì sẽ bị thu hồi. Vì thế, cán bộ cho thuê đất lợi đôi đàng, vừa không bị nhà nước thu hồi đất, vừa được tiền cho thuê, lại được người khác cải tạo, trông giữ đất dùm.
Theo hồ sơ điều tra riêng của Tiền Phong, có hàng ngàn ha đất vùng Tứ giác Long Xuyên đã được cấp cho cán bộ -CNV của tỉnh Kiên Giang. Đối tượng cấp là từ cán bộ tỉnh, huyện, đến các ngành. Thực tế tại vùng Tứ giác Long Xuyên, “đất quan chức” mênh mông. Việc cấp đất cho cán bộ là một chủ trương của tỉnh Kiên Giang thực hiện trong nhiều năm qua.
Tuy nhiên, nhiều người sau khi được cấp đất đã bỏ hoang, người dân thì không có đất sản xuất. Hiện có nhiều người từ Đồng Tháp, An Giang đến Tứ giác Long Xuyên để thuê đất sản xuất, chủ yếu trồng lúa. Vì không phải đất của họ, không có sổ đỏ nên người thuê đất không có tài sản thế chấp vay vốn ngân hàng, thường phải vay ngoài lãi suất cao, nên mãi không thoát được nghèo.
Vua khoai lang đi thuê đất, khó vay vốn ngân hàng
Vua khoai lang Ba Hạo (Đỗ Quí Hạo) ở ấp Hiệp Lợi, xã Mỹ Hiệp Sơn, huyện Hòn Đất đang canh tác 52 ha đất, đều là đất thuê của nông dân, mỗi năm thu hoạch 2.500 tấn khoai. Gia đình ông có 8 ha nhưng manh mún, không đủ để sản xuất hàng hóa lớn, nên ông thuê 52 ha đất liền thửa của 17 hộ cùng ấp, với giá một năm 400 giạ/ha.
Mỗi năm, ông Ba Hạo chi 1,7 tỷ đồng cho tiền thuê đất, và bị coi là phá giá ở xã Mỹ Hiệp Sơn, vì ông trả cao hơn khoảng 100 giạ/ha so với giá thị trường.
Anh Lê Văn Sa, một người cho ông Ba Hạo thuê 1 ha đất, nói: “Tiền thuê đất mỗi năm được 30 triệu đồng để dành dụm. Vợ chồng chúng tôi còn trẻ, khỏe nên đi thuê ruộng ngoài làm thêm với giá thấp hơn, lại không phải trả tiền trước. Năm nào không thuê được ruộng thì đi làm mướn cũng đủ sống”.
Ông Ba Hạo đang bì bõm giữa ruộng khoai, dừng lại khoe: “Năm rồi thắng lợi lớn nhất từ trước tới nay. Khoai lang được mùa, trúng giá, trừ chi phí, tôi lời được 1,8 tỷ đồng. Khoai đỏ xuất sang Trung Quốc, khoai tím bán cho các nhà máy chế biến ở Bình Dương, Vĩnh Long”.
Nhưng vua Ba Hạo buồn rầu khi nghe phóng viên hỏi về vay vốn ưu đãi theo chủ trương của Nhà nước. Ông nói: “Tôi sản xuất có làm dự án đàng hoàng. Dự án tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân địa phương mà tôi đang thực hiện có vốn đầu tư lớn. Với 52 ha đất thuê dài hạn của dân, giá 1,7 tỷ đồng/năm; 5 máy cày trị giá khoảng 2 tỷ đồng; nhà xưởng, nhà ở cho người lao động 1,5 tỷ đồng. Tổng cộng gần 6 tỷ đồng vậy mà ngân hàng chỉ cho vay có 100 triệu đồng, chẳng thấm vào đâu”.
Cánh đồng khoai lang xuất khẩu của ông Ba Hạo, không chỉ sản xuất hàng hóa lớn mà còn ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học, công nghệ, từ việc canh tác cho đến vận dụng thời tiết để xuống giống và thu hoạch có hiệu quả kinh tế cao. Những ứng dụng của ông được phổ biến rộng rãi cho bà con nông dân trong vùng nên có hiệu ứng xã hội tốt. Thế nhưng, ông Ba Hạo nói, các chính sách hỗ trợ với ưu đãi vốn đều quá xa vời.
Ông Phạm Văn Quang – Phó GĐ Chi nhánh ngân hàng NN&PTNT tỉnh Kiên Giang nói với phóng viên: Ông Ba Hạo vẫn có thể vay được vài tỷ theo Nghị định 41/CP hoặc 63/CP về tổn thất sau thu hoạch của Chính phủ. Tuy nhiên theo tìm hiểu của Tiền Phong, người dân rất khó có thể tiếp cận các nguồn vốn này bởi rườm rà nhiều thủ tục, nguyên tắc tài chính.
Theo Tiền phong

Tin khác