1. Những vấn đề cấp bách trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân
Nông thôn là địa bàn sinh sống chủ yếu của hộ gia đình nông dân, có chức năng quan trọng là sản xuất và cung ứng nông sản cho xã hội. Hiện nay có 70% dân số, 57% lao động sinh sống và làm việc ở khu vực nông thôn và nông thôn đóng góp 20% thu nhập quốc nội (GDP). Vì vậy, phát triển nông nghiệp và nông thôn luôn giành được sự quan tâm to lớn của Đảng và Nhà nước, nhiều chủ trương ban hành và tổ chức thực hiện hiệu quả đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể làm thay đổi bộ mặt nông thôn.
Sau hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng, lãnh đạo và chỉ đạo, kinh tế nước ta có bước phát triển mạnh mẽ, đời sống kinh tế và văn hóa của nông dân được nâng lên một bước. Nhưng so với mặt bằng chung thì nông thôn ta vẫn nghèo và phát triển chậm, khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Đặc biệt khi kinh tế thị trường không ngừng hoàn thiện, chi phí cho giáo dục và y tế của nông dân tăng cùng thành thị, nhưng mức tăng thu nhập của cư dân nông thôn lại thấp so với thành thị nên cuộc sống của nông dân ngày càng khó khăn.
Đã nhiều năm nay ta áp dụng “giá cánh kéo” để tích lũy ban đầu từ nông nghiệp, nông dân đóng góp nhiều cho nhà nước. Nhưng đầu tư cho khu vực nông thôn chưa tương xứng với vị trí và vai trò của nông nghiệp và nông thôn trong sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Những năm gần đây cùng với sự phát triển của đô thị và tiến hành công nghiệp hóa thì nhu cầu về đất tăng lên, dẫn tới diện tích canh tác giảm mạnh, nông dân mất đất, cuộc sống của nông dân một số địa phương khó khăn, một bộ phận nông dân trở thành người không đất trồng cấy, không nghề nghiệp, không đảm bảo được cuộc sống.
Cách đây 10 năm đầu tư cho nông nghiệp là 13,85% tổng đầu tư toàn xã hội, nay còn 6,20%. Từ năm 1988 tới 2009, nguồn FDI đầu tư vào nông nghiệp cũng giảm từ 2,25% nay còn 0,58%.
Hiện nay ở nông thôn cơ sở hạ tầng yếu kém, năng suất lao động nông nghiệp rất thấp, nông thôn vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, còn khoảng 10 triệu người nghèo, giáo dục, y tế… còn lạc hậu xa so với thành thị.
Nông dân là chủ lực quân của cách mạng giải phóng dân tộc, là người khởi xướng công cuộc đổi mới, nhưng ít hưởng lợi nhất về đổi mới. Nếu đổi mới mà khoảng cách giàu nghèo càng rộng, chênh lệch giữa thành thị và nông thôn càng lớn thì đổi mới ấy đang chệch hướng, đổi mới không thành công.
Vì vậy, làm gì để nâng cao sức sản xuất cho nông nghiệp, nông dân, nâng cao đời sống cho nông dân, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài của Đảng và Nhà nước ta.
2. Ưu điểm và tồn tại của một số mô hình sản xuất chính
Hợp tác xã nông nghiệp
Từ khi có chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân, lấy hộ là đơn vị sản xuất trong nông nghiệp thì mô hình hợp tác xã kiểu cũ không còn phù hợp. Sau khi có Nghị quyết số 13-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và Luật Hợp tác xã sửa đổi năm 2003, chúng ta bắt đầu tiến hành chuyển hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ sang hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới. Theo Bộ Nông nghiệp và PTNT, từ năm 2006 tới năm 2010, toàn quốc có khoảng 9.000 hợp tác xã kiểu mới với 7,7 triệu xã viên .
Đại đa số các tỉnh Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ đã chuyển đổi theo mô hình này. Theo kết quả điều tra ở các tỉnh như Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, có tới 98-100% số hộ nông dân tham gia chuyển đổi từ hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ sang hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới. Hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới chủ yếu là loại hình hợp tác xã dịch vụ: khâu nào hộ xã viên làm riêng lẻ không hiệu quả thì hợp tác xã làm, như: thuỷ lợi, bảo vệ thực vật, khuyến nông, hướng dẫn khoa học kỹ thuật, làm đất, bảo vệ nội đồng, cung ứng vật tư… Thường thì mỗi hợp tác xã làm dịch vụ 4-5 khâu.
|
Tại các tỉnh Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới được hình thành trên cơ sở giải thể hợp tác xã nông nghiệp cũ, thành lập hợp tác xã nông nghiệp mới hoàn toàn theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi. Nông dân tự nguyện góp vốn đáp ứng được nhu cầu hoạt động kinh doanh của hợp tác xã, gắn quyền lợi và trách nhiệm của từng hộ xã viên. Người sáng lập có trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ kinh doanh trở thành cán bộ quản lý hợp tác xã, năng động, sáng tạo, thích ứng được với cơ chế thị trường nên làm ăn có hiệu quả. Nhưng hợp tác xã kiểu này có hạn chế là số người tham gia quá ít: Đông Nam Bộ bình quân 36 người/HTX, Đồng bằng sông Cửu Long bình quân 15 người/HTX.
Cách chuyển đổi hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ sang hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới vẫn mang nặng tính hình thức: tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế lợi ích không có sự thay đổi căn bản, chưa tạo được động lực phát triển mới để gắn lợi ích của các hộ xã viên và người quản lý. Hộ tham gia hợp tác xã theo cách "đánh trống ghi tên" nên họ không góp vốn hoặc có góp thì góp chiếu lệ từ 30.000-50.000 đồng/hộ và bản thân họ không có động lực kinh tế; hợp tác xã không có vốn hoạt động (cán bộ quản lý ngồi chơi xơi nước), ruộng đất theo hộ vẫn manh mún, nhỏ lẻ không tập trung, không tiến hành cơ khí hoá để nâng cao năng suất, không tiến hành thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, sinh học hoá, thị trường hóa…, do đó không tạo ra được sản phẩm hàng hoá.
Tổ hợp tác
Từ khi các hợp tác xã kiểu cũ giải thể, tan rã, loại hình tổ hợp tác (có nơi gọi là nhóm sở thích) trong nông nghiệp, nông thôn ra đời và ngày càng phát triển. Đây là loại hình kinh tế hợp tác đơn giản. Tức là các tổ, hội nghề nghiệp hình thành trên cơ sở tự nguyện của các thành viên. Mục đích là cộng tác, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm.
Theo số liệu của Cục Kinh tế hợp tác và PTNT (Bộ Nông nghiệp và PTNT), năm 2005, cả nước có 93.648 tổ hợp tác, hàng năm tăng 4%, đến năm 2010 đạt 112.000 tổ. Nhiều địa phương có tới hàng nghìn hoặc hàng chục nghìn tổ hợp tác (Thanh Hóa 22.752 tổ, Hưng Yên 1.754 tổ, Quảng Bình 1.172 tổ, Nghệ An 2.000 tổ, Yên Bái 2.500 tổ...). Đặc biệt ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, tổ hợp tác trở thành hình thức kinh tế tập thể chính của vùng, được coi là tổ chức có phương thức mưu sinh hiệu quả nhất, năng động nhất hiện nay.
Tổ hợp tác hình thành trên cơ sở địa phương không còn hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã kiểu mới được hình thành từ các tổ hợp tác và tổ hợp tác ra đời từ các hợp tác xã kiểu mới. Các loại hình chủ yếu là: tổ hợp tác tưới tiêu, tổ hợp tác vay vốn, tổ hợp tác khoa học kỹ thuật và chia sẻ kinh nghiệm, tổ hợp tác lao động, tổ hợp tác trong lĩnh vực trồng trọt, tổ hợp tác chăn nuôi, tổ hợp tác thủy sản, tổ hợp tác ngành nghề nông thôn, tổ hợp tác quản lý bảo vệ rừng…
Mô hình này là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất hàng hóa. Nó là cơ sở để hình thành hợp tác xã kiểu mới, liên hiệp hợp tác xã, doanh nghiệp-hợp tác xã (hợp tác xã cổ phần), các hiệp hội trong nông nghiệp, nông thôn, đồng thời tổ hợp tác là vệ tinh quan trọng làm cho sức sống hợp tác xã kiểu mới càng lớn mạnh. Tuy nhiên, tới nay, Nhà nước chưa có một chế tài cụ thể cho tổ hợp tác phát triển.
Kinh tế trang trại
Trước đổi mới, thành phần kinh tế trang trại không được chấp nhận, chỉ sau khoán 10, khi Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất về cho hộ nông dân, khi kinh tế phát triển trong thời gian dài, thì mô hình kinh tế trang trại mới dần hình thành. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế trang trại là:
Sản xuất của trang trại là sản xuất nông, lâm, thủy sản hàng hóa với quy mô lớn hơn kinh tế hộ. Tập trung hóa, chuyên môn hóa các điều kiện và yếu tố sản xuất cao hơn hẳn so với kinh tế hộ. Chủ trang trại có kiến thức, kinh nghiệm điều hành sản xuất, biết áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất, sử dụng lao động gia đình và thuê lao động bên ngoài sản xuất có hiệu quả cao, có thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong thời gian chưa đầy 10 năm, cả nước đã phát triển được trên 150.000 trang trại các loại, sử dụng gần 1 triệu hecta đất trống, ao hoang, đồi núi trọc. Cho tới nay, các trang trại chuyên trồng cây nông nghiệp chiếm 55,3%, chăn nuôi gia súc, gia cầm 10,3%, lâm nghiệp 2,2%, nuôi trồng thuỷ sản 27,3%, trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp 4,9%. Thành tựu nổi bật của trang trại sản xuất nông nghiệp cho đến nay là: Khai thác thêm 30 vạn hecta đất trống, đồi núi trọc, đất hoang hóa. Huy động 20.000 tỷ đồng vốn trong dân để đầu tư. Giải quyết việc làm thường xuyên cho 30 vạn lao động và 30 triệu ngày công thời vụ. Giá trị sản phẩm hàng năm đạt 12.000 tỷ đồng.
Nhưng một trong những khó khăn hạn chế đến việc mở rộng đầu tư của trang trại là khó tiếp cận các tổ chức tín dụng để vay vốn sản xuất kinh doanh.
Mô hình liên kết, liên doanh với doanh nghiệp
Một nghịch lý đang tồn tại là: Người có khả năng kinh doanh nhưng lại không có đất đai, còn người có đất đai lại không có khả năng kinh doanh. Hộ nông dân có diện tích đất nhỏ lẻ, manh mún thì không thể sản xuất ra lượng hàng hoá lớn. Chỉ có tập trung ruộng đất hay tích tụ ruộng đất mới thực hiện sản xuất lớn, mới có điều kiện tiến hành cơ giới hoá nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành. Hiện nay, đã có rất nhiều mô hình liên kết, liên doanh với các doanh nghiệp cả quốc doanh và tư doanh với hợp tác xã, với hộ nông dân. Hình thức liên kết như sau:
- Doanh nghiệp lo đầu tư vốn, cung cấp giống tốt, kỹ thuật, vật tư cho sản xuất nông nghiệp, tiến hành chế biến và tiêu thụ hầu hết các sản phẩm làm ra. Hộ nông dân góp ruộng và ngày công lao động theo quy hoạch "liền vùng, cùng trà, khác chủ", sản phẩm làm ra được doanh nghiệp thu mua chế biến và tiêu thụ.
Mô hình liên kết này hiện đang diễn ra rất sôi động ở nhiều nơi, nhiều vùng, nhiều dạng, mấu chốt là sản phẩm làm ra có khối lượng lớn, được chế biến và tiêu thụ trở thành hàng hoá lớn. Có thể nêu một số mô hình điển hình sau: Hợp tác xã, nông dân liên doanh liên kết với các công ty sản xuất mía đường (Nhà máy Đường Lam Sơn ở Thanh Hoá). Hợp tác xã liên doanh với doanh nghiệp sản xuất rau quả thực phẩm (Công ty Bẩy Hoà, TP.Hồ Chí Minh; Vân Nội, Hà Nội; Xuân Hương, Đà Lạt, Lâm Đồng). Hợp tác xã liên doanh với doanh nghiệp sản xuất cây ăn quả (Công ty Vĩnh Kim, sản xuất vú sữa Lò Rèn, Vĩnh Long). Hợp tác xã liên doanh với doanh nghiệp sản xuất cây công nghiệp (Công ty Chè Mộc Châu sản xuất chè Shan tuyết). Hợp tác xã liên doanh với doanh nghiệp sản xuất thuỷ sản (Công ty TNHH Hùng Vương, Cần Thơ). Hợp tác xã liên doanh với doanh nghiệp sản xuất lúa gạo xuất khẩu (Công ty Tam Nông, Đồng Tháp). Hợp tác xã liên doanh với doanh nghiệp sản xuất các loại giống lúa, ngô chất lượng cao (Công ty cổ phần Giống cây trồng Thái Bình; Công ty Cường Tân, Trực Ninh, Nam Định).
Đây là những mô hình có thể nhân rộng, khuyến khích phát triển trong giai đoạn hiện nay.
Mô hình hợp tác xã nông nghiệp cổ phần
Mô hình này phát triển ở mức độ cao hơn, tự thân vận động. Đó là các hộ trong hợp tác xã quy mô thôn hay hợp tác xã quy mô xã tự góp vốn (ở mức độ cao, không phải ở mức 50.000 đồng/hộ như kiểu hợp tác xã hiện nay). Hộ nông dân là những cổ đông, họ góp vốn bằng quyền sử dụng đất và tính cổ phần. Họ vẫn là nông dân, đất vẫn thuộc về họ. Họ được chia cổ tức và nhận lương khi lao động. Đặc biệt, Ban quản lý phải là những người có trình độ quản lý, có ý chí đầu tư, nhiệt tình, năng động, sáng tạo. Ban quản lý thường gọn nhẹ, gồm: Chủ nhiệm phụ trách chung, 2-3 phó chủ nhiệm phụ trách trồng trọt, hậu cần, gia công chế biến tiêu thụ sản phẩm. Nông dân được chia từ các nguồn: thu từ đóng góp cổ phần bằng ruộng đất, từ ngày công cụ thể từ lợi nhuận hàng năm của hợp tác xã cổ phần, từ trích lãi tăng theo từng vụ, từng năm. Thực hiện mô hình này giải quyết được nhiều vấn đề lớn đang đặt ra ở khu vực nông thôn, đó là:
Tập trung hay tích tụ được ruộng đất để tiến hành cơ giới hóa, sản xuất ra sản phẩm hàng hóa lớn, nâng cao được năng suất lao động, hạ giá thành, phù hợp với cơ chế thị trường và sản xuất hàng hóa. Phù hợp với nguyện vọng của nông dân là không bị mất đất. Đảm bảo ổn định lâu dài về tiêu thụ sản phẩm. Việc thực hiện mô hình này yêu cầu phải quy hoạch lại vùng sản xuất, hoạch định sản xuất những sản phẩm chính và tìm thị trường tiêu thụ ổn định.
Ở nước ta hiện nay, mô hình này đang xuất hiện ở một số nơi nhưng số lượng còn ít. Ví dụ như Hợp tác xã cổ phần càphê Lâm Viên (Lâm Đ ồng); Hợp tác xã cổ phần Kiều Thạch (Thanh Hải, Lục Ngạn, Bắc Giang). Cụ thể là mỗi hợp tác xã cổ phần quy tụ được số đông thành viên là những người có nhu cầu, chung lợi ích, tự nguyện góp vốn để sản xuất kinh doanh, sản phẩm làm ra đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
3. Đổi mới chính sách tạo điều kiện phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp
Thực tiễn trong quá trình phát triển kinh tế chúng ta mới nhận ra rằng: Quan hệ sản xuất lạc hậu hoặc "tiên tiến" hơn trình độ lực lượng sản xuất một cách giả tạo sẽ kìm hãm, hạn chế sự phát triển của lực lượng sản xuất. Thời kỳ quá độ ở một số nước nông nghiệp như chúng ta tất yếu phải tôn trọng nhiều hình thức sở hữu, đa dạng, đa quy mô, phù hợp với trình độ quản lý, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phù hợp với cơ chế thị trường và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Như vậy, tùy từng nơi, từng vùng, tùy từng trình độ quản lý và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mà có thể áp dụng 5 mô hình sản xuất nông nghiệp sau:
- Mô hình trang trại.
- Mô hình tổ hợp tác.
- Mô hình hợp tác xã dịch vụ (HTX kiểu mới).
- Mô hình hợp tác xã liên doanh liên kết với doanh nghiệp.
- Mô hình hợp tác xã cổ phần (doanh nghiệp -HTX).
Thực tế hiện nay, mô hình liên doanh liên kết với các doanh nghiệp và mô hình hợp tác xã cổ phần (doanh nghiệp -HTX) là những mô hình tiên tiến sẽ đưa sản xuất nông nghiệp nước ta lên sản xuất lớn, bởi vì những ưu điểm sau:
- Tập trung, tích tụ được ruộng đất (không ở tình trạng nhỏ lẻ, manh mún, "dẫm chân tại chỗ" như hiện nay).
- Tiến hành hiện đại hóa về nông nghiệp, nông thôn (tiến hành cơ khí hóa để nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, điện khí hóa, thủy lợi hóa, sinh học hóa, thị trường hóa…).
- Tạo ra khối lượng hàng hóa lớn, tiêu thụ các sản phẩm nông dân làm ra, phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập.
- Nông dân không bị mất đất, cái mà nông dân không bao giờ muốn. Đó là thành quả của cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân mà Đảng đã mang lại cho họ.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, đời sống của nông dân sẽ được nâng lên, bộ mặt nông thôn sẽ đổi mới, giải quyết được mâu thuẫn mất cân đối giữa thành thị và nông thôn và như vậy công nghiệp hóa của chúng ta mới thành công, đổi mới mới đúng hướng. Đây là vấn đề lớn đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải có chủ trương, chính sách, giải pháp tạo thuận lợi cho các mô hình sản xuất nông nghiệp mới phát triển, phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Chính sách đất đai
- Trước hết phải tiếp tục chỉ đạo cuộc vận động dồn điền, đổi thửa trong các hộ nông dân từ 10-12 mảnh/hộ xuống còn 1-2 mảnh/hộ, không còn manh mún, nhỏ lẻ để tiến hành sản xuất ra sản phẩm hàng hóa hoặc có thể dùng "mảnh lớn" để góp cổ phần bằng ruộng đất, phục vụ sản xuất hàng hóa.
- Sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai, giao quyền sử dụng lâu dài cho nông dân từ 20 năm lên 50-70 năm.
- Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn sẽ diễn ra sự phân công lại lao động. Lao động trong nông nghiệp sẽ dịch chuyển ra các khu công nghiệp, thành thị, ra làm dịch vụ…, sẽ phải giảm từ 70% xuống còn 40% rồi 20% và khi nước ta trở thành nước công nghiệp thì lao động trong nông nghiệp chỉ còn dưới 10%. Cho nên bỏ chính sách hạn điền để mở đường cho tập trung và tích tụ ruộng đất tạo điều kiện cho các loại hình sản xuất nông nghiệp có quy mô lớn, hiện đại, nâng cao thu nhập, nâng cao đời sống cho nông dân.
Chính sách tín dụng
Phải có cơ chế chính sách cho nông dân, hay bất kể mô hình nào cũng được vay vốn để đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Không được vay vốn thì mô hình nào cũng không hoạt động và phát triển được. Chính sách tín dụng hiện nay chưa thực sự tạo điều kiện cho các loại hình hợp tác vay vốn để phát triển sản xuất.
Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp
Nhà nước kêu gọi các loại hình doanh nghiệp đầu tư, liên doanh, liên kết với hợp tác xã, với nông dân bằng nhiều chính sách ưu đãi như miễn giảm thuế, ưu tiên vay vốn, tiêu thụ sản phẩm, bảo hộ sản phẩm… để doanh nghiệp thuận lợi đầu tư vào nông nghiệp, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn.
Chính sách đào tạo cán bộ
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho các dạng hình hợp tác là vô cùng quan trọng, nó nâng cao nguồn lực lâu dài cho các mô hình để quản lý, kinh doanh có hiệu quả, mở rộng liên doanh liên kết với các thành phần kinh tế. Đây là yếu tố con người mang tính quyết định thành bại. Đảng và Nhà nước cần có chính sách đưa cán bộ giỏi, có kinh nghiệm, năng lực, sinh viên tốt nghiệp ra trường về nông thôn giúp nông dân, giúp hợp tác xã xây dựng nông thôn mới, xây dựng hợp tác xã làm ăn lớn tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X xác định: Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn; chưa đặt vấn đề giải quyết quan hệ sản xuất phù hợp với cơ chế thị trường, nhiều thành phần kinh tế. Đề nghị Đảng cần có nghị quyết riêng về giải quyết quan hệ sản xuất phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập ở nông thôn rộng lớn của chúng ta hiện nay.
TS. Bùi Sĩ Tiếu (Phó chủ tịch TƯ HLV VN)