Một số giải pháp chủ yếu về phát triển kinh tế những tháng cuối năm 2011

05/08/2011

Với sự đồng thuận của toàn xã hội, nỗ lực, cố gắng vượt bậc của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, tình hình kinh tế nước ta 7 tháng đầu năm 2011 đã đạt được những kết quả tích cực.

Kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng cao; tổng kim ngạch xuất khẩu 7 tháng đầu năm 2011 đạt 51,5 tỷ USD, tăng 33,5% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ nhập siêu trong 7 tháng là 6,64 tỷ USD, bằng 12,9% tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu (thấp hơn bình quân 6 tháng là 15,72%). Các ngành, các cấp đã triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để kiểm soát nhập siêu cả năm 2011 không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu. Các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch tiếp tục đà tăng trưởng; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 7 tháng ước đạt 1065,8 nghìn tỷ đồng, tăng 22,3% so với cùng kỳ năm 2010. Thu ngân sách tiếp tục tăng khá, bảo đảm nguồn chi ngân sách và góp phần giảm bội chi ngân sách nhà nước. Tổng thu ngân sách nhà nước 7 tháng đầu năm 2011 ước đạt khoảng 386,8 nghìn tỷ đồng, bằng 65% dự toán năm. Tổng chi ngân sách nhà nước 7 tháng đầu năm 2011 ước khoảng 420,3 nghìn tỷ đồng, bằng 58,8% dự toán năm.
Trong bối cảnh nền kinh tế trong và ngoài nước còn nhiều khó khăn, thách thức, đạt được kết quả trên đã thể hiện quyết tâm, nỗ lực rất lớn của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân. Bên cạnh những kết quả tích cực, tình hình kinh tế nước ta đang đứng trước những khó khăn rất lớn như:
Lạm phát tuy có xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao. Giá tiêu dùng tháng 7/2011 so với tháng 12/2010 tăng 14,61% và tăng tới 34,62% so với cùng kỳ năm 2010. Nguyên nhân của lạm phát cao có yếu tố bên ngoài như giá lương thực, xăng dầu quốc tế tăng, tình hình lạm phát cao đang diễn ra ở nhiều nước trên thế giới và yếu tố bên trong do tác động của việc sử dụng gói kích thích kinh tế từ năm 2008 đến năm 2010 cũng như từ việc tăng giá điện, xăng dầu, tăng lương cán bộ, công chức.
Mặt bằng lãi suất vẫn ở mức cao, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay khá lớn. Việc vay vốn tín dụng của một bộ phận doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn khó khăn.
Nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu đã có cải thiện nhưng mức nhập siêu vẫn còn cao, 7 tháng đầu năm 2011 ước khoảng 6,64 tỷ USD. Nhập siêu của nước ta chủ yếu từ các nước trong khu vực, nhất là từ Trung Quốc. Do vậy, cần tiếp tục có các giải pháp phù hợp để cải thiện tình hình, giảm sức ép đối với tỷ giá, thị trường ngoại hối và lãi suất cho vay.
Mô hình phát triển kinh tế của nước ta còn một số bất cập; hiệu quả công tác dự báo chưa cao; công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa thu được nhiều kết quả. Một số cơ quan, địa phương có lúc, có nơi còn chưa thực sự triển khai quyết liệt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Do ảnh hưởng của lạm phát, lãi suất cao, khu vực sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn, lợi nhuận sụt giảm, một số phải thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh, thậm chí đã có không ít doanh nghiệp bị phá sản. Đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm so với cùng kỳ. Thị trường chứng khoán khó khăn, thị trường bất động sản suy giảm. Xu hướng này sẽ ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội trong năm 2011 và các năm sau.
Nhìn chung, tình hình kinh tế những tháng cuối năm 2011 và năm 2012 còn diễn biến phức tạp và nhiều khó khăn do tác động, ảnh hưởng của cả những tồn tại, hạn chế nội tại của nền kinh tế và tác động do diễn biến khó lường từ bên ngoài. Lạm phát, mặt bằng lãi suất vẫn ở mức cao; khu vực sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn do phải tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tài khoá, tiền tệ và kiềm chế lạm phát. Trước tình hình trên đòi hỏi cần tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo điều hành kiên trì, quyết liệt các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội trong những tháng cuối năm 2011 và một số năm tiếp theo.
Trước những bất ổn vĩ mô đang hiện hữu cho thấy việc thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ kinh tế của năm 2011 đang là thách thức lớn. Việc lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành những tháng cuối năm phải tiếp tục kiên trì bám sát các nội dung Kết luận của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội, quyết liệt, đồng bộ trong chỉ đạo điều hành triển khai thực hiện các giải pháp; trong đó tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội là mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm. Đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm của một số năm tiếp theo để tạo đà phát triển bền vững cho việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 – 2020.
Để kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tiềm năng tăng trưởng những tháng cuối năm, một số giải pháp cần tập trung triển khai thực hiện, đó là:
Về chính sách tiền tệ: Tiếp tục thực hiện điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng; điều hành tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý theo quý, tháng phù hợp với diễn biến thị trường, đặc biệt là vào các thời điểm mùa vụ sản xuất, kinh doanh khi nhu cầu vốn tăng cao. Tiếp tục sử dụng linh hoạt, hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ để giảm sức ép lạm phát, giảm lãi suất xuống mức phù hợp nhằm hỗ trợ sản xuất, kinh doanh, bảo đảm thanh khoản của hệ thống tín dụng, ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nợ xấu và chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng; kiểm soát để tỷ lệ và mức cho vay tín dụng vào lĩnh vực phi sản xuất, bất động sản, chứng khoán giảm so với hiện nay; tập trung vốn cho vay lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp, nông thôn, sản xuất những sản phẩm thiết yếu với đời sống nhân dân, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ. Tiếp tục thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn tài chính của các tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư, công ty tài chính; xác định tiêu chí và thực hiện phân loại các tổ chức tín dụng để có biện pháp giám sát và xử lý kịp thời.
Tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt, hợp lý để bình ổn thị trường và tăng dự trữ ngoại hối; tăng cường kiểm tra, giám sát việc tuân thủ quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng. Kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền là mục tiêu trung và dài hạn của chính sách tiền tệ, tạo tiền đề cho việc kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.
Về chính sách tài khoá: Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách tài khóa thắt chặt, phối hợp hài hoà với việc thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng nhằm giảm tổng cầu, giảm sức ép lạm phát năm 2011 và năm 2012. Tiếp tục tập trung thực hiện các giải pháp tăng thu, phấn đấu vượt 7 - 8% dự toán thu năm 2011; tiết kiệm chi để giảm bội chi ngân sách thấp hơn mức Quốc hội quyết định; tiếp tục rà soát, cắt giảm vốn đầu tư của Nhà nước vào những công trình, dự án không hiệu quả, chưa thật sự cần thiết, tiến độ chậm, kéo dài, tập trung vốn cho các công trình sắp hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2011, công trình an sinh xã hội, giảm nghèo, phòng tránh thiên tai; kiểm soát chặt chẽ đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.
Quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn dự phòng ngân sách, nguồn tăng thu năm 2011 và nguồn tiết kiệm chi thường xuyên năm 2011; ưu tiên dùng các nguồn này cho phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, thực hiện chính sách an sinh xã hội. Các Bộ, ngành và địa phương chủ động sắp xếp, bố trí trong phạm vi dự toán được giao để xử lý các nhiệm vụ đột xuất phát sinh trong năm. Tăng cường quản lý, giám sát nợ nước ngoài của khu vực doanh nghiệp; tăng cường kiểm soát nợ Chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài quốc gia, bảo đảm trong giới hạn phù hợp, an toàn.
Về chính sách thương mại, giá cả, thị trường: Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ thị trường, giá cả, bảo đảm ổn định cung - cầu hàng hoá, dịch vụ thiết yếu. Tập trung chỉ đạo quản lý thị trường, giá cả, chủ động phương án ứng phó trước những biến động của tình hình thị trường hàng hóa thế giới và trong nước, không để xảy ra đột biến giá các mặt hàng thiết yếu; ổn định nguồn cung trong nước, bảo đảm cân đối cung - cầu hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống. Thực hiện điều hành giá điện, xăng dầu, than theo cơ chế thị trường phù hợp với tình hình và mục tiêu kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội; thực hiện công khai, minh bạch trong điều hành giá cả theo cơ chế thị trường để các doanh nghiệp và người dân hiểu rõ, có sự chuẩn bị về tâm lý và biện pháp ứng xử.
Các ngành, các cấp tiếp tục chỉ đạo thực hiện các biện pháp bình ổn giá cả, thị trường, tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật về giá, nhất là đăng ký, kê khai, niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, ngăn chặn đầu cơ, găm hàng, thao túng thị trường, tăng giá bất hợp lý, buôn lậu qua biên giới; chống đầu cơ tăng giá, cạnh tranh không lành mạnh; xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về giá cả, thị trường. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, vận động cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương trong quản lý, kiểm tra, giám sát giá cả, bình ổn thị trường. Nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành hàng; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành với các Hiệp hội ngành hàng để tạo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành, phối hợp tổ chức mạng lưới thông tin dự báo tình hình thị trường, giá cả.
Về thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng: Thực hiện các biện pháp tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh, trong tiếp cận vốn đối với dự án hiệu quả, có đầu ra của sản phẩm; khuyến khích tiết giảm chi phí, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Tập trung nguồn lực đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn để bảo đảm an ninh lương thực và tăng xuất khẩu nông sản, bảo đảm đời sống nông dân; có giải pháp cụ thể giúp nông dân qua hỗ trợ về kỹ thuật, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu... và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tiếp tục đầu tư phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn, có lợi thế so sánh, sản phẩm đầu ra có chất lượng, giá trị gia tăng cao và các ngành công nghiệp hỗ trợ để tạo đà phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại. Phát triển mạnh, ổn định các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao; phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, chất lượng cao. Có biện pháp phù hợp để khuyến khích, tăng cường vai trò của khu vực kinh tế ngoài nhà nước trong định hướng phát triển các ngành kinh tế và các lĩnh vực dịch vụ. Bảo đảm đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân đi đôi với tiết kiệm điện.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xây dựng cơ chế ưu đãi về thuế, vốn, đất đai, nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; chú trọng công tác quy hoạch, tăng cường công tác quản lý, bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đất đai, tài nguyên và nhân lực. Khuyến khích và tạo điều kiện để doanh nghiệp sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, tài nguyên, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tiếp tục triển khai thực hiện từng bước, có hiệu quả chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tăng cường tính minh bạch, nâng cao hiệu quả của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản để tạo kênh huy động hiệu quả, bền vững các nguồn lực tài chính, đất đai phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể thúc đẩy xuất khẩu, sử dụng hàng sản xuất trong nước và kiểm soát nhập khẩu đối với từng loại mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu có kim ngạch lớn. Thực hiện nghiêm chủ trương sử dụng hàng hóa, vật tư, thiết bị sản xuất trong nước; xây dựng quy trình, nguyên tắc kiểm soát nhập khẩu hàng hóa, vật tư, thiết bị của các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn do Chính phủ bảo lãnh, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu hàng tiêu dùng, đặc biệt là hàng ảnh hưởng đến sức khoẻ, môi trường, hàng xa xỉ, hàng không thiết yếu, hàng không khuyến khích nhập khẩu; hạn chế xuất khẩu tài nguyên, nguyên liệu thô.
Chỉ đạo điều hành xuất khẩu gắn với yêu cầu bình ổn giá cả, thị trường trong nước. Điều chỉnh, bổ sung chính sách thuế theo hướng tạo động lực khuyến khích sản xuất các mặt hàng trong nước có khả năng thay thế nhập khẩu và hạn chế nhập khẩu, nhất là đối với các mặt hàng xa xỉ, hàng không thiết yếu. Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại cấp cao, thúc đẩy hợp tác, đầu tư và buôn bán giữa Việt Nam với các nước. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách cơ cấu và quản trị doanh nghiệp, làm rõ trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Triển khai thực hiện nghiêm túc và có kết quả việc sắp xếp, đổi mới, cổ phần hoá, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý về cơ chế cảnh báo sớm đối với doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi về nguồn nhân lực, đất đai, vốn, hỗ trợ pháp lý để khuyến khích phát triển các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế ngoài nhà nước./.
Theo Báo Điện tử Đảng Cộng sản

Nguồn:http://dangcongsan.vn/CPV/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30066&cn_id=471867


Tin khác