Nền nông nghiệp Việt Nam vươn lên ứng phó có hiệu quả với nguy cơ biến đổi khí hậu toàn cầu

21/06/2011

Là quà tặng thiêng liêng nhất của người mẹ thiên nhiên giành cho loài người, trái đất của chúng ta đã trở thành một cỗ máy sống khổng lồ, cực kỳ thông minh và hoàn hảo, được vận hành theo cơ chế tự làm sạch, tự cân đối phục vụ tối đa lợi ích của con người. Rất tiếc là con người với tư cách là chủ nhân của trái đất, đã có những hành vi xử sự trái quy luật, phá vỡ cơ chế tự làm sạch, tự cân đối của trái đất, tạo nên nguy có hủy hoại cỗ máy sống tuyệt vời đã tạo ra nền văn minh cho chính mình. Bởi vậy, loài người phải tự điều chỉnh mọi hành vi của bản thân, tự phát kiềm chế tốc độ gia tăng dân số, điều chỉnh mô hình phát triển.

I. NHÌN THẲNG VÀO NGUY CƠ, ĐẨY LÙI NGUY CƠ, CHỌN TẠO THỜI CƠ
Thế kỷ 20 là thế kỷ bùng nổ dân số toàn cầu. Dân số thế giới từ 1,5 tỷ lên 6 tỷ người, tăng 4 lần chỉ trong 100 năm. Theo Ủy ban Dân số và Phát triển của Liên hợp quốc gần đây, đến năm 2011, dân số thế giới tăng lên 7 tỷ người, đến năm 2011 có thể lên tới 14 tỷ người. Ủy ban này kêu gọi phải có nỗ lực cao nhất để tránh dân số thế giới lên 14 tỷ người vào năm 2100 và lên 30 tỷ người vào năm 2300.
Nhu cầu loài người là vô hạn, tài nguyên thiên nhiên là có hạn, đó là mâu thuẫn gay gắt nhất trong xã hội loài người.
Dân số tăng quá nhanh, con người phải khai phá quá mức các nguồn tài nguyên để duy trì sinh tồn và cải thiện đời sống; cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa vượt khỏi tầm kiểm soát đã tạo ra những nguy cơ đe dọa nghiêm trọng cuộc sống của con người.
1.      Biến đổi khí hậu làm trái đất ấm dần lên
 
Trên toàn cầu đang có nhiều loại biến đổi, nhưng biến đổi khí hậu là biến đổi quan trọng nhất, phức tạp nhất, mà nguyên nhân chủ yếu là do biến đổi khí nhà kính trong thành phần không khí gồm: CO2, CH4, N2O, CFC… trong đó tỷ lệ đóng góp của các tác nhân: thủ phạm lớn nhất là CO2 chiếm 60%, CH4 chiếm từ 15 – 30%, các tác nhân khác 5 – 12%. Biến đổi khí hậu làm cho trái đất ấm lên. Trong 10 năm nóng nhất của thế kỷ 20, có 7 năm xảy ra trong thập lỷ 90. Trên thế giới, sông băng lùi dần, giảm dần, núi băng ở Bắc cực trong 10 năm qua đã giảm 40% độ dày. Mực nước biển trong 10 năm qua cũng tăng gấp 3 lần tốc độ tăng của 3000 năm trước đó. Sự sống của động thực vật và loài người đang chịu sự tác động nặng nề.
 
2.      Đa dạng sinh học suy giảm
 
Hàng năm có trên 5000 loài sinh vật bị tuyệt chủng, nhanh gấp trên 1000 lần so với trước khi có con người. Nếu đa dạng sinh học tiếp tục bị suy giảm, sẽ có tới 50% số loài mất đi, cho dù không phải phần lớn các loài mất đi chăng nữa thì 90% số loài hiện còn hoặc 50% biến dị di truyền cũng bị tiêu tan.
 
3.      Ô nhiễm môi trường
 
Chất lượng môi trường toàn cầu xấu đi, tính ổn định của hệ sinh thái rối loạn và bị phá hoại, kèm theo đó là điều kiện sống của con người bị phá vỡ do nước thải, khí hậu, rác thải từ hoạt động sản xuất và đời sống của con người gây nên, hoặc do các hóa chất, phân bón hóa học sử dụng vượt quá khả năng tự làm sạch của môi trường. Hệ sinh thái và sức khỏe của con người bị ảnh hưởng do ô nhiễm không khí, nước, đất và tiếng ồn. Trong số 50 triệu người chết hàng năm trên thế giới, có 75% số người chết do ô nhiễm môi trường.
 
4.      Tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, thoái hóa
 
Tài nguyên trái đất là chỗ dựa để loài người sinh tồn là có hạn, dù tài nguyên là đất, nước, rừng có thể tái tạo, cũng như tài nguyên khoáng sản, đất không thể tái tạo. Tài nguyên dầu mỏ còn có thể khai thác được 140 tỷ tấn, đủ dung cho khoảng 40 năm nữa; tài nguyên khí thiên nhiên 15 tỷ m3, còn có thể sử dụng được 60 năm nữa. Nước ngọt ngày càng thiếu hụt. Hiện nay, toàn thế giới còn 1,1 tỷ người không có nước sạch. Hàng ngày có 6000 trẻ em chết vì thiếu nước sạch và bệnh tật do thiếu điều kiện vệ sinh. Đến thập niên 90 của thế kỷ 20, còn ¾ nông dân và 1/5 dân số đô thị trên thế giới không đủ nước ngọt dung quanh năm. 90% thức ăn của loài người là dựa vào đất, nhưng có tới 35% diện tích đất của trái đất đã thoái hóa. Hoạt động của loài người trên trái đất đã vượt quá sức tải của tài nguyên đất.
 
5.      Hệ sinh thái mất cân bằng
 
Nhiệt độ trái đất đang nóng lên, đất bị bào mòn, sa mạc hóa nghiêm trọng, đồng cỏ thoái hóa, tài nguyên rừng bị phá hoại, loài sinh vật suy giảm. Tính từ năm 1866 đến nay, 14 năm nóng nhất đều xuất hiện sau năm 1980, làm núi băng tan, giông bão bột phát, thiên tai xảy ra thường xuyên. Thiên tai lớn trong thập kỷ 90 của thế kỷ 20 nhiều gấp 3 lần thập niên 60 của thế kỷ 20, tổn thất kinh tế tăng 7 lần, tổn thất do bão tố tăng 14 lần. Từ năm 1920 – 1970, mỗi năm ở Bắc bán cầu có 40 cơn bão tố, thì từ năm 1985 đến nay, mỗi năm có 80 cơn.
 
Trong họa phải tìm ra phúc. Phải có giai pháp đẩy lùi nguy cơ và trong chương trình đẩy lùi nguy cơ phải tạo ra thời cơ. Riêng trong nông nghiệp phải chọn tạo cơ hội để tự cứu mình và góp phần cứu loài người. Nền nông nghiệp phải chọn phương thức và công nghệ sản xuất thông minh, thân thiện với môi trường. Phải tìm kiếm giải pháp để xây dựng nền nông nghiệp phát triển bền vững hướng tới một nền nông nghiệp hiện đại kiểu mới gắn với một nền văn minh nông nghiệp mới vì sự phồn vinh của loài người.
 
II.  HƯỚNG TỚI MỘT NỀN NÔNG NGHIỆP XANH
   Là quà tặng thiêng liêng nhất của người mẹ thiên nhiên giành cho loài người, trái đất của chúng ta đã trở thành một cỗ máy sống khổng lồ, cực kỳ thông minh và hoàn hảo, được vận hành theo cơ chế tự làm sạch, tự cân đối phục vụ tối đa lợi ích của con người. Rất tiếc là con người với tư cách là chủ nhân của trái đất, đã có những hành vi xử sự trái quy luật, phá vỡ cơ chế tự làm sạch, tự cân đối của trái đất, tạo nên nguy có hủy hoại cỗ máy sống tuyệt vời đã tạo ra nền văn minh cho chính mình. Bởi vậy, loài người phải tự điều chỉnh mọi hành vi của bản thân, tự phát kiềm chế tốc độ gia tăng dân số, điều chỉnh mô hình phát triển.
Đối mặt với biến đổi khí hậu và các nguy cơ về sinh thái, vào thế kỷ 21, loài người bước vào thời đại xanh, xây dựng một nền kinh tế xanh, một nền nông nghiệp xanh.
Khởi nguồn của nông nghiệp cách đây đã một vạn năm. Cách đây 7 đến 8 ngàn năm, nền nông nghiệp nguyên thủy đã bắt đầu phát triển và cuộc cách mạng đưa loài người từ thời “kinh tế săn bắn” sang thời kỳ “kinh tế sản xuất”. Tiếp đó, nền nông nghiệp nguyên thủy chuyển sang nông nghiệp truyền thống, dựa chủ yếu vào động lực súc vật, sử dụng phân hữu cơ gia đình là chính, không sử dụng phân hóa học, thuốc hóa chất giúp cho môi trường sống giữ được trong lành, nhưng sức sản xuất quá lạc hậu, không đáp ứng được nhu cầu của con người.
Từ sau cuộc cách mạng công nghiệp ở Tây Âu và Mỹ, từ thập niên 30 của thế kỷ 20, nền nông nghiệp hiện đại ra đời, với đặc trưng mới về cơ giới hóa, hóa học hóa, tập trung hóa, tiền tệ hóa, tạo ra bước nhảy vọt lớn về sản xuất hàng hóa. Với công nghệ hiện đại mang tính tước đoạt, sử dụng nhiều phân vô cơ, thuốc hóa chất, gây ô nhiễm môi trường, tiêu hao nhiều, thu lại ít. Hệ số tiêu hao của nông nghiệp truyền thống là 4/1 thì hệ số này trong nông nghiệp hiện đại là 10/1, làm hủy hoại môi trường sinh thái. Từ thập niên 80 của thế kỷ 20, các nước phát triển phát hiện nông nghiệp hiện đại đã bước vào ngõ cụt của nền nông nghiệp dầu mỏ, đề xuất mô hình nông nghiệp thay thế như nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sinh học, nông nghiệp đầu tư thấp, nông nghiệp tự nhiên, nong nghiệp sinh thái. Từ những kinh nghiệm thực tiễn và những thành tựu của mô hình nông nghiệp thay thế, dư luận quốc tế đề xuất mô hình nông nghiệp xanh được đánh giá là mô hình nông nghiệp hiện đại khoa học nhất tiếp sau nền nông nghiệp dầu lửa.
Nền nông nghiệp xanh vận dụng dinh thái học và kinh tế học sinh thái, nhằm tiết kiệm tài nguyên, giảm tiêu hao năng lượng đầu vào, hạn chế sử dụng phân hóa học, thuốc hóa chất, sử dụng chất hữu cơ nhiều tầng nấc, tài nguyên hóa chất thải, tái tạo tuần hoàn vật chất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đảm bảo loài người được sử dụng nông sản xanh, an toàn có lợi cho sức khỏe, đồng thời thu hút được nhiều việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, làm vho ngành nông nghiệp có thể trở thành một ngành sản xuất bền vững, chuỗi sản xuất nông nghiệp được kéo dài, giúp cho sản phẩm sơ cấp được tinh chế ngày càng sâu, tạo ra sản phẩm cao cấp trên cơ sở công nghiệp hóa, tăng nhanh năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Xây dựng nền nông nghiệp xanh còn tạo điều kiện để phát triển nền văn minh sinh thái, xây dựng nếp sống văn hóa kết hợp hài hòa giữa con người và tự nhiên, người với người, người với xã hội theo một chu trình văn minh, giàu tính nhân văn. Nông nghiệp xanh cũng sẽ góp phần ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường, cùng với phát triển nền kinh tế xanh góp phần giảm thiểu hiệu ứng nhà kính đang làm trái đất nóng lên. Với nền nông nghiệp xanh, sản xuất sản phẩm xanh, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xanh của thị trường, đồng thời tăng gấp bội sức cạnh tranh nông sản, thực phẩm Việt Nam trên thị trường quốc tế. Với an toàn về chất lượng, có sức cạnh tranh cao, tạo được nhiều thương hiệu nông sản xanh của Việt Nam sản xuất theo công nghệ chuẩn hóa, được quản lý chặt chẽ, từng bước nâng cao trình độ quản lý nền nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế. Nền nông nghiệp xanh gắn kết được yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp, an toàn sinh thái và hiệu quả kinh tế làm cơ sở để phát triển sản xuất bền vững, sinh thái bền vững, từ đó, nông nghiệp xanh sẽ hòa vào dòng chảy của thời đại xanh, phải chăng là sự lựa chọn tối ưu của loài người và của Việt Nam về mô hình phát triển nông nghiệp của thế kỷ 21.
III. ĐẦU TƯ XÂY DỰNG NHỮNG CÔNG TRÌNH MANG TÍNH CHẤT CHIẾN LƯỢC ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU
Nước ta có trách nhiệm cùng cộng đồng quốc tế tham gia chương trình hành động phối hợp chung để ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, cùng nhau bảo vệ cuộc sống của loài người.
Công trình sinh thái sẽ là công trình chiến lược có hiệu quả lớn nhất về sinh thái – kinh tế - xã hội, thu hút được người dân tham gia, có giá trị trường tồn, đó là công trình rừng sinh thái, dựa vào cây xanh lâu năm.
Hiện nay, độ che phủ trên cả nước là khoảng 40%, đến năm 2020 độ che phủ cả nâng lên 47% với diện tích rừng khoảng 16 triệu ha. Rừng cây xanh lâu năm với tán cây lớn, che phủ đất tốt, có bộ rễ lớn, bám sâu vào lòng đất, có công năng cực kỳ hiệu quả về giữ đất, chống xói mòn, giữ nước, ngăn chặn lũ lụt; là vệ sỹ tốt nhất bảo vệ môi trường sinh thái vùng đất dốc, là vùng đất chiếm tỷ lệ lớn trong toàn bộ lãnh thổ nước ta. Bên cạnh công năng đó, rừng cây xanh lâu năm có công năng sinh học đặc thù là hàng ngày hút CO2, nhả O2 và hấp thụ một số khí thể khác, với sinh khối lớn, phân hủy chậm, được đánh giá là kho sinh học khổng lồ chon các khí gây hiệu ứng nhà kính, làm trái đất ấm lên. Công trình rừng sinh thái được đầu tư phát triển chủ yếu ở vùng đồi núi của cả nước, kết hợp nhiều loại cây lâu năm, kết hợp sinh thái với kinh tế, có hiệu ứng đa tác dụng, sẽ trở thành nguồn tài nguyên vô giá của đất nước ta trong tương lai.
Trong tập đoàn cây lâu năm, ngoài cây lấy gỗ, lâm sản ngoài gỗ, có một số loại cây được đánh giá cao về hiệu quả bảo vệ môi trường. Chẳng hạn tre, trúc được coi là thành phần quan trọng của rừng nhiệt đới, á nhiệt đới. Một ha tre, trúc có cường độ quang hợp 4 – 10 g/m2/giờ, cao gấp đôi cường độ quang hợp của cây lá rộng âm tính. Tre, trúc hấp thụ bụi cực kỳ tốt, lượng bụi lắng trên trái đất hàng năm từ 1x10(9) – 3,7x10(9) kg, có một số vùng đô thị, mức bụi lắng đọng lên tới 0,5 – 1,0 kg/m2 năm. Tre, trúc hút bụi có thể đạt 4,0 – 8 gam/m2 năm.
Các nhà khoa học đánh giá cao giá trị cây sở, ngoài để lấy dầu ăn, còn có giá trị sinh thái nổi trội. Sở là cây thường xanh, chu kỳ kinh tế trên 100 năm, sau trồng 5 – 7 năm có thể thành rừng, cường độ che phủ rất tốt. Sở là cây làm sạch môi trường. Trồng cách vùng ô nhiễm 200 m, hàm lượng Fluor trong lá trên 1000 mg/kg, sở vẫn sống bình thường. Ở vùng bị ô nhiễm, sau khi trồng 2 tháng, 1 kg lá sở khô có thể hấp thụ 7,4 g S, 2,9 g Fluor. Ở vùng đồi núi nước ta, nếu trồng trên diện tích lớn, sở có thể trở thành cây có đóng góp to lớn về sinh thái và môi trường. Với rừng lá kim, cứ 1 ha tán phát 2 – 5 kg terpence có tác dụng sát trùng mạnh, phòng trị một số bệnh nan y, trở thành loại rừng điều dưỡng sức khỏe cho con người…
Cùng với rừng sinh thái vùng đồi núi, phải đầu tư mạnh trồng rừng chắn song lấn biển, bảo vệ bờ biển, rừng chắn cát bay, rừng vùng đất phèn và đất ngập nước cùng đồng bằng song Cửu Long và các giải cây xanh ở các vùng nông thôn và đô thị, đặc biệt là các loại cây xanh hấp thụ khí độc, khí thải, hút bụi, giảm tiếng ồn… 16 triệu ha rừng lâu năm như vậy là chỗ dựa vững chắc để bảo vệ tốt môi trường sống cho nhân dân ta.
Bên cạnh công trình sinh thái ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu trong phạm vị quốc gia và đóng góp chung với cộng đồng quốc tế thì phải đầu tư xây sựng hệ thống công trình bảo vệ ở vùng bị uy hiếp trực tiếp bởi nước biển dâng, gồm công trình đê biển, ngăn mặn và bảo vệ bờ biển để chắn song, công trình tạo nguồn nước ngọt cho sản xuất đời sống, công trình kiến thiết đồng ruộng, xây dựng khu dân cư phát triển phù hợp với tình hình thực tế của các vùng này, phục vụ sản xuất và đời sống của cộng đồng dân cư tại chỗ.
Trên thế giới, bài học Hà Lan vẫn còn nguyên giá trị. Hà Lan có 27% diện tích lãnh thổ thấp hơn mực nước biển và 1/3 diện tích đât liền chỉ cao hơn mực nước biển không quá 1 m. Hà Lan đã xây dựng đập ngăn mặn, tạo lập hồ nước ngọt Ifsslmer rộng 120.000 ha, đã xây dựng 2.800 km đê chống lũ lụt, đê sông nội đồng, đạt tiêu chuẩn an toàn thế giới. Mạng lưới kênh rạch chằng chịt bảo vệ đồng ruộng, đảm bảo đồng ruộng dù thấp hơn mực nước biển 4 – 6 m, vẫn được sản xuất theo công nghệ cao, được coi là kỳ quan thế giới.
Chúng ta học tập kinh nghiệm hay của các nước, vận dụng sáng tạo vào nước ta để tìm ra cách làm mới sáng tạo, vừa đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, vừa tiết kiệm vốn đầu tư, có hiệu quả bền vững.
IV. TÁI CẤU TRÚC NỀN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
Theo các tài liệu đã được nghiên cứu, khí hậu các vùng của Việt Nam sẽ có nhiều biến đổi vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm của nước ta tăng 2,3 độ C, tổng lượng mưa và lượng mưa mùa mưa tăng trong khi lượng mưa mùa khô lại giảm, mực nước biển dâng khoảng 75 cm so với mức trung bình thời kì 1980 – 1999.
Theo tư liệu mới nhất còn cho biết, vào cuối thiên niên kỷ này, nhiều vùng đất trên thềm lục địa sẽ chìm ngập 2 m dưới mực nước biển. Khu vực đồng bằng châu thổ sông Mê Kông , trong đó có đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam bị bao phủ bởi hơn 1 m nước mặn, sản lượng lúa gạo sẽ giảm một nửa hoặc hơn nữa. Để ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu tác động tới Việt Nam, nền nông nghiệp nước ta phải từng bước điều chỉnh chiến lược về cơ cấu, xây dựng nền nông nghiệp thích nghi, chung sống tích cực với điều kiện khí hậu có nhiều biến đổi.
Cơ cấu ngành sản xuất đòi hỏi phải tái cấu trúc
Nền nông nghiệp Việt Nam hiện nay đã trớ thành ngành sản xuất hàng hóa ngày càng lớn, gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, trong đó có ngành sản xuất nổi tiếng thế giới: lúa gạo, cao su, cà phê, hồ tiêu, chè, rau hoa quả, mía đường, chăn nuôi gia súc, gia cầm , nuôi trồng thủy sản, gỗ… đảm bảo nhu cầu lương thực – thực phẩm, nguyên liệu công nghiệp để tiêu dùng trong nước và có kim ngạch xuất khẩu ngày càng lớn tới mức gần 20 tỷ USD vào năm 2010.
Trong tương lai, nhiều ngành mũi nhọn của nông nghiệp vẫn tiếp tục phát triển, nhưng phải đối mặt trực tiếp với thực trạng nước biển dâng làm nhiều diện tích vùng đồng bằng song Cửu Long và đồng bằng sông Hồng bị nước mặn nhấn chìm, làm cục diện sản xuất lương thực – thực phẩm bị đảo lộn, uy hiếp trực tiếp đến an ninh lương thực – thực phẩm của đất nước mà dân số có thể đến 130 – 140 triệu người trong tương lai.
Nhu cầu dinh dưỡng của con người chủ yếu là chất bột, chất đạm, chất béo, chất khoáng và vitamin, trong đó nhu cầu có khối lượng lớn là chất bột., chất đạm, chất béo chủ yếu dựa vào lương thực, thịt, cá và dầu ăn.
Tình hình biến đổi về khí hậu sẽ ảnh hưởng lớn đến nguồn cung, do đó phải xem xét điều chỉnh về cầu
Xét về tổng lượng cầu, với 130 – 140 triệu dân, hàng năm nhu cầu của con người trong cả nước khoảng 30 triệu tấn lúa gạo, 25 triệu tấn thịt và thủy sản và khoảng 2 triệu tấn dầu ăn, trong đó thịt và thủy sản cần nguồn thức ăn tinh rất lớn, chủ yếu là chất bột. Nếu 25 triệu tấn thịt, thủy sản, với cơ cấu 55% nhu cầu protein từ gia súc, gia cầm, 45% từ thủy sản thì có thể cần tới 55 triệu tấn lương thực/năm để sản xuất thức ăn tinh, cộng với 30 triệu tấn lúa gạo/năm cho người thì hàng năm cả nước cần tới trên 80 triệu tấn lương thực các loại, khó có nguồn cung đảm bảo. Như vậy, phải thay đổi cơ cấu tiêu dùng về đạm theo các hướng: vừa sử dụng đạm động vật, vừa sử dụng đạm thực vật; trong đạm động vật vừa sử dụng đạm từ thịt gia súc, gia cầm vừa sử dụng đạm từ thủy sản; trong đạm từ thịt gia súc, gia cầm ăn chất bột, vừa sử dụng đạm từ gia súc ăn cỏ; việc thay đổi cơ cấu tiêu dùng đó, sẽ thay đổi hẳn có cấu thức ăn chăn nuôi, vì hệ số tiêu tốn thức ăn tinh của thủy sản chỉ bằng 30% hệ số tiêu tốn thức ăn chăn nuôi gia súc.
Từ cách tính toán như vậy, thức ăn tinh cho nhu cầu chăn nuôi (gia súc, gia cầm, thủy sản) chỉ cần 35 triệu tấn/năm, ngoài dựa vào ngô, phải phát triển cây có củ truyền thống từ lâu đời, mà nước ta có khả năng tự cân đối.
Nhu cầu 1,5 – 2 triệu tấn dầu ăn được cân đối dựa vào phát triển mạnh các cây có dầu, chủ yếu là cây có dầu lâu năm trồng ở các vùng miền núi.
Cơ cấu sản xuất trên lãnh thổ các vùng cũng phải thay đổi. Vùng đồng bằng, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng, chịu ảnh hưởng lớn nhất của mực nước biển dâng, vừa tiếp tục phát triển lúa, cây ăn trái trên diện tích còn bảo vệ được, phần diện tích bị nhấn chìm trong nước biển phải chuyển sang nuôi trồng thủy sản và trồng các loại tảo nước mặn, mở ra cơ hội mới của ngành sản xuất này. Vùng đồi núi không bị ảnh hưởng trực tiếp từ nước biển dâng, diện tích đất chưa sử dụng còn 4 triệu ha, là không gian dự trữ, góp phần bù đắp những ngành sản xuất truyền thống bị suy giảm của các vùng đồng bằng, tạo cơ hội mới để phát triển mạnh các ngành sản xuất hoa màu chất bột, chăn nuôi gia súc, gia cầm, cây lấy dầu ăn, bên cạnh nghề rừng tiếp tục là ngành sản xuất chủ đạo của vùng này.
Điều chỉnh cơ cấu theo hướng trên đây, nền nông nghiệp Việt Nam được tái cấu trúc, tạo ra cục diện mới của ngành nông nghiệp Việt Nam, đảm bảo nền nông nghiệp Việt Nam tiếp tục đi theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, phát triển bền vững trong thế kỷ 21…
Phó Thủ tướng Nguyễn Công Tạn
Tạp chí Nông nghiệp Và Phát triển nông thôn – Kỳ 2 – Tháng 3/2011

Tin khác